Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

Những chúa đảo ở biển Tây

Hiệp sĩ mù giữa hòn Móng Tay

 

Một ngư dân nói rằng Móng Tay  (xã Dương Hòa, H.Kiên Lương, Kiên Giang) là hòn đảo “lập dị” nhất ở vùng biển này. Nhưng sự “lập dị” của hòn đảo không nổi tiếng bằng “ông chúa đảo” Dương Hoài Ân (49 tuổi), vốn là đề tài đồn thổi của cánh đi biển với biệt danh “hiệp sĩ mù”.

Lãnh địa cô đơn

Đại loại như ông có thể bơi một mạch từ ngoài đảo vào đất liền, cả tháng không ăn uống cũng chẳng sao, rồi anh có khả năng đoán biết trước được những cơn bão biển mà không cần đến chiếc radio bên cạnh…
Người ta gọi đảo Móng Tay là “hòn cô đơn”. Nằm chếch một bên giữa quần đảo Bà Lụa và quần đảo Hải Tặc, nhưng đảo Móng Tay lại… “chẳng chịu” thuộc quần đảo nào. Hòn đảo này nằm khuất với đường vận chuyển hàng hải nên ít tàu bè qua lại.
Đó là lý do thôi thúc chúng tôi tìm gặp anh Ân nơi đảo vắng. Ngư dân Năm Kiên đồng ý nổ máy đưa chúng tôi ra hòn Móng Tay. Đám ngư phủ cũng tình nguyện xin theo chỉ để gặp được “hiệp sĩ mù”.
Thế nhưng, sóng gió đã sớm làm thất vọng những ngư phủ nhát gan. Họ phải cho tàu trở lại đất liền khi gặp phải nước xoáy ở giữa đường ra đảo. Thế là phải thêm vài cuộc đàm phán, một ngư phủ “chán đời” khác mới chịu cùng chúng tôi bắt đầu hành trình tra tấn của sóng biển để đến với hòn đảo nhiều giai thoại này.
Chúng tôi đến nơi, khác trong mường tượng về một chúa đảo đi mây về sóng, ông mang dáng vẻ cục mịch chào khách với giọng nói hiền từ, chậm rãi và không giấu được niềm vui có khách lạ ghé thăm đảo. Chưa cần biết khách thế nào, ông hỏi ngay: “Làm tí rượu nhé, tôi xuống bãi lấy mồi?”.
Và câu chuyện đời ông được gợi mở với cả một quãng dài tăm tối cùng nỗ lực hơn người để vượt qua số phận.
Sau một cơn bạo bệnh hồi năm 6 tuổi, ông phải bắt đầu cuộc đời mù lòa. Đến 8 tuổi, gia đình 9 người của ông chỉ còn ông cùng một chị gái và một đứa em nhỏ. Cậu bé Hoài Ân mù lòa khi đó đã mò lên tàu lưới bao của một người quen để kiếm sống. Thương tình, chủ tàu tốt bụng cho Ân làm ngư phủ bất đắc dĩ, với ý nghĩ “nuôi cơm làm phước”.
Thế nhưng chỉ 1 năm sau, cậu bé Hoài Ân đã là một ngư phủ thực thụ đến khó tin. Ông kể lại, 9 tuổi ông có thể làm được tất cả những việc mà một ngư phủ cần làm. Theo tàu được 10 năm cũng là khoảng thời gian ông đi khắp nơi từ biển Tây sang biển Đông và được biết đến như một ngư phủ giỏi nghề, nổi tiếng cả vùng biển.
 Những chúa đảo ở biển Tây: Hiệp sĩ mù giữa hòn Móng Tay
Chúa đảo Dương Hoài Ân còn có biệt danh là “hiệp sĩ mù” trên đảo cô đơn
- Ảnh: Tiến Trình

Không hợp với đời sống trên bờ

Tháng 7.2000, Hoài Ân bất ngờ từ giã biển khơi. Trở lại đất liền mua chiếc xuồng nhỏ để đi câu cá, đánh bạch tuộc ven bờ. Ông nói khi những cơn gió biển có thể làm ông lạnh buốt da, thì ông biết rằng mình không thể tiếp tục cuộc đời lang bạt. Thế nhưng, ở đất liền, ông lại cảm thấy mình không hợp với đời sống trên bờ. Ra khơi không được, ở đất liền cũng không xong, chỉ còn đảo hoang là ông chưa ở.
Một sáng đẹp trời, người ta thấy ông Ân mang theo 2 can nước, một mình giong xuồng hướng ra đảo Móng Tay. Hòn đảo này lúc chiến tranh là nơi đến của dân tản cư. Tuy nhiên, điều kiện sống khắc nghiệt, thiếu nước ngọt khiến người ta không có lý do gì để sống ở thời bình.
Hoài Ân kể, ông từng có thời gian sinh sống trên đảo này. Gia đình ông là những người cuối cùng rời hòn Móng Tay, mà dân đi biển gọi đây là “đảo ma”.  Khi trở lại đây với đôi mắt mù lòa, ông chẳng biết sẽ sống ra sao khi đơn thân giữa đảo.
Mò mẫm tìm lối đi, phát hoang bụi rậm để dựng chòi. Khi đói thì xuống biển lặn bắt ốc, bắt cá qua bữa. Thỉnh thoảng, người trên ghe đánh cá qua lại hay ghé đảo xem Hoài Ân còn sống không. Có người tới, ông lại gửi số cá, ốc bắt được về đất liền nhờ bán để mua nhu yếu phẩm gửi ra.
Không những thế, “hiệp sĩ mù” còn dọn cây, phát cỏ, trồng cây ăn trái, cây lấy gỗ… biến sườn nam của đảo Móng Tay thành khu vườn xanh mát.
Thậm chí, về sau, ông cất nhà, tự làm các vật dụng như tủ, bàn, ghế. Rảnh rỗi, “hiệp sĩ mù” trồng cây thuốc nam để giúp chữa trị cho mình qua những cơn đau yếu.
Ông nói sở dĩ đảo này có tên là hòn Móng Tay vì trước đảo này rất nhiều cây móng tay, hay còn gọi là cây sơn hải tùng. Biết được, người trong đất liền đi tàu ra bứng mang về làm kiểng. Hiện trên đảo chỉ còn 4 cây, ông mò mẫm trồng ở nơi khuất để bảo tồn loại cây mà theo ông là rất quý này.
Thấy ông sống một mình trên đảo, chính quyền địa phương hồi năm ngoái đã cất căn nhà tình thương, rồi nhắn ghe bảo ông về đất liền sinh sống. Hoài Ân nói ông rất cảm kích, nhưng đã quen sống trên đảo rồi, về đất liền không thích nghi được.
Thương ông, vợ chồng người em út cũng dọn ra đảo nhưng chỉ được thời gian, người em mải mê biển cả có khi vài tháng mới ghé qua đảo. Người vợ ở nhà vừa sống khắc khổ, lại buồn tẻ nên quay về đất liền.
Khi được hỏi sao không tính đến việc cưới vợ, sinh con, thì “hiệp sĩ mù” cười hiền: “Nhỏ lớn sống trên biển, trái tim tôi bị nước biển ăn sét rồi. Với lại mình mù lòa tăm tối...”.
Về tới đất liền, người ngư dân chở tôi ra đảo lại bất ngờ hỏi: “Đố nhà báo từ ngoài đảo bơi vô đây mất bao lâu?”. Tôi chắc chắn: “Không thể có ai bơi vô được”. Chàng ngư phủ to khỏe trùng trục phán: “Tôi cũng không dám bơi. Nhưng không hiểu sao ông ấy lại bơi từ đảo vào đây được, nể luôn”. Đó là một trong những chuyện đáng nể về khả năng vượt lên số phận của người chúa đảo mù lòa này.


Huyền thoại về gia đình họ Tiết

 

Đảo Hòn Ngang lớn thứ hai trong quần đảo Bà Lụa (xã Sơn Hải, Kiên Lương, Kiên Giang), cũng là hòn đảo yên bình lạ lùng từ lúc có một gia đình đặt chân đến đây.


 Những chúa đảo ở biển Tây - Kỳ 2: Huyền thoại về gia đình họ Tiết 1
Trên đảo Hòn Ngang - Ảnh: Tiến Trình

Kết giao với hải tặc

“Gần 80 năm ở vùng này, sóng gió gì tui chưa qua”, cụ Tiết Thị Nhớ - người sống bên cạnh “thế hệ huyền thoại” của quần đảo Bà Lụa, cũng là người lớn tuổi nhất quần đảo, người có công góp phần khai phá đảo Hòn Ngang - bảo bây giờ đi biển là đã “sướng” hơn ngày trước rất nhiều. Như cụ, đã 93 tuổi, mùa biển động ầm ầm, người yếu đi biển ngất lên ngất xuống thì cụ vẫn tỉnh rụi.
Cụ Nhớ biết đến sóng gió biển cả từ rất nhỏ, khi theo cha, ông Tiết Kệ Lìl, giương buồm hướng ra vùng biển mờ xa về hướng tây nam. Là người giỏi võ, hay chữ, lại biết ít nhiều thuốc thang trị bệnh, thế nhưng ông Lìl không ra làm quan, cũng chẳng theo đảng cướp. Ông âm thầm dẫn con cái, bạn hữu đi tìm những hòn đảo mới. Chính sự hiền từ, chịu khó, không đua tranh mà ông Lìl càng được nhiều nể trọng của người dân từ đất liền đến hải đảo.
Bà Nhớ nói, thời điểm đi tìm sự sống ở các đảo hoang, thỉnh thoảng lại gặp những người “nói tiếng lạ”, có lẽ họ cũng đi tìm đảo mới để sinh sống như mình. Biết có người đến trước, họ lặng lẽ bỏ đi.
Tìm ra tới Ba Hòn Đầm, ông Lìl lại gặp ông Tăng Văn Lộc, một trong những tướng cướp trứ danh của đảng cướp Cánh Buồm Đen hoạt động vùng biển quanh quần đảo Hải Tặc. Lúc này, ông Lộc đã giải nghệ, về cắm một mảnh đất ở đây làm chốn dung thân. Hai hổ gặp nhau, người ta lo ngại sẽ có một cuộc tỷ thí sống còn để phân chia cao thấp, tranh giành ảnh hưởng, đất đai. Nhưng không. Nhận ra người quân tử, ông Lộc nhường cho ông Lìl một miếng đất đẹp ở hòn Đầm Dương. Cả hai kết tình bằng hữu, hoạn nạn có nhau.
Được “kỷ niệm” miếng đất tại Ba Hòn Đầm, nhưng ông  Lìl không cất nhà sinh sống mà đưa vợ con trở lại Hòn Ngang khai hoang, trồng dừa để vừa là nguồn dinh dưỡng, vừa là nguồn nước ngọt qua những cơn thắt ngặt. Thỉnh thoảng chài lưới qua Ba Hòn Đầm, ông lại ghé bầu bạn với ông Lộc. Họ dặn nhau giữ gìn những hòn đảo quý giá cho đời con cháu, tuyệt nhiên không sang bán cho ai.
Hòn Ngang chỉ nhỏ hơn Hòn Heo, dư sức để ông khai hoang, chia cho 10 người con. Sau gia đình họ Tiết đến đây khai hoang, lập xóm, dù còn khó khăn về nguồn nước, nhưng đảo là điểm hay ghé của các tàu ghe qua lại mỗi khi hoạn nạn, khó khăn. Bởi Hòn Ngang không bị quản lý bởi chính quyền đô hộ như Hòn Heo.

Tuổi xuân sóng gió

Những chúa đảo ở biển Tây - Kỳ 2: Huyền thoại về gia đình họ Tiết 2
Ở tuổi 93, nhưng bà Tiết Thị Nhớ vẫn rong ruổi khắp nơi từ các đảo đến vào đất liền 
 
Bà Nhớ nói, ba của bà rất nghiêm khắc với các con. Mỗi người con họ Tiết lớn lên chí ít cũng phải biết được những kỹ năng cần thiết để sống sót trên vùng biển đảo. Ở tuổi mới lớn, là con gái, nhưng bà phải cầm chèo căng buồm ra khơi chài lưới.
Không chỉ quẩn quanh quần đảo Bà Lụa, mà tay chèo của bà đã qua khắp vùng vịnh Tây Nam. Quần áo không lành để mặc, nắng gió đen đúa chẳng khác nào con trai. Được cha huấn luyện, bà Nhớ chẳng bao lâu trở thành người đi biển giỏi. Vừa chài lưới, thỉnh thoảng gặp đảo mới chưa có người thì họ cứ cập xuồng vào để tìm nguồn nước, nhưng kết quả đều không như mong đợi.
Tháng ngày nắng gió trên biển khiến người con gái nhan sắc cũng quên đi những rạo rực đầu đời. Cho đến khi cha đồng ý gả bà cho một ngư dân đánh câu kiều, khi người này ghé đảo để phơi cá. Con gái xứ đảo heo hút có chồng cũng đơn giản như thế. “Lúc có chồng tui cũng đẻ nhiều lắm, nhưng chết cũng nhiều. Giờ còn 5 đứa thì phải. Ờ, 3 gái 2 trai”.
Tuổi tác lại thoáng qua trong trí nhớ bà cụ, để rồi bà lại trở về cái thời ngang dọc, khốn khó. Đó là những năm kinh tế bao cấp. Dân đất liền còn khó khăn, dân đảo càng khó khăn bội lần. Vì chính quyền thời đó không cho dự trữ lương thực, mà mỗi lần được mua gạo phải vào tận Hà Tiên. Có lần biển động, gạo trên các đảo đã hết, lại không có tàu để vào đất liền mua… dân đảo phải lên rừng đào khoai rạng ăn trừ cơm. Bám trụ khó khăn như thế, nhưng không ai rời bỏ đảo.
Bà Nhớ nói thế hệ của bà thừa kế trách nhiệm giữ gìn hòn đảo của cha bà. Rồi thế hệ con cháu bà cũng thế. Họ chứng kiến nhiều lớp người đến rồi đi vì nhiều lý do. Có lúc hòn đảo như quá nhỏ bé trước dòng người lưu xứ lánh nạn chiến tranh. Thế rồi, hòn đảo cũng trở lại là nơi cưu mang những người gắn bó máu thịt với nó. Bệnh tật, người ta có thể vào đất liền. Nhưng lâu dài, thế hệ cháu chắt của bà không thể cam phận dốt.
Bà Nhớ khuyến khích các cháu hướng về đất liền tìm cái chữ, học càng cao càng tốt. Và trong những người cháu của bà, có người cũng đã thành đạt từ học vấn. Đã có người là lãnh đạo huyện, có người là cán bộ cấp cao ở Hà Nội. Họ là biểu tượng để thế hệ sau trên đảo nuôi chí vươn xa.
Thế nhưng, cũng có những người phát hoảng lên khi nghe nhắc đến chuyện rời đảo. Len qua khu nhà khang trang, chằng chịt dưới những tán cây, ông Được, con bà Nhớ nói người ta mong muốn nhất là có được cuộc sống an nhiên. Trên hòn đảo này, vợ chồng, con cháu của ông đang có cuộc sống an nhiên, hạnh phúc. Khi cần thì đi tàu vào đất liền. Giống như bà Nhớ, thỉnh thoảng lại cỡi sóng đi thăm chị em, con cháu. Được khen, bà Nhớ khỏa tay: “Vất vả đã làm cho mình khỏe lên như vậy”.

Các nữ chúa trên hòn Mây Rút

 

“Sống sót” trong những tháng ngày trốn chạy ra đảo hoang, những phụ nữ trong gia đình chúa hòn Mây Rút đã khiến cánh đàn ông đi biển phải nghiêng mình.


Lưu lạc đảo hoang

Nhiều người đã giật mình khi lần đầu gặp bà Tám Nữ (Phạm Thị Nữ) trên hòn Mây Rút, hòn đảo nằm chếch về hướng tây của quần đảo An Thới (H.Phú Quốc, Kiên Giang).

Cụ Thiêu (áo sậm) sinh được 16 người con, nhưng chỉ có 6 còn sống qua thời bĩ cực - Ảnh: T.T
Cách “ăn sóng nói gió” đặc trưng của dân biển khiến dễ ngộ nhận rằng chị đang la hét ai. Ngược lại, mẹ bà là cụ Trần Thị Thiêu (84 tuổi) thì thâm trầm với nụ cười thân thiện thường trực. Cụ Thiêu sinh được 16 người con nhưng trải qua chiến tranh, bệnh tật, chỉ còn 6 người.
Cuộc đời của gia đình ông Bảy Yên (Phạm Văn Yên, quê H.Kiên Lương, Kiên Giang, chồng của cụ Thiêu) bắt đầu trôi dạt sau câu nói của một sĩ quan chế độ Sài Gòn: “Tôi biết ông là cộng sản. Nhưng vì ông quá tốt với chúng tôi nên tôi tha mạng ông một lần…”. Nghĩ đến đàn con thơ phải liên lụy, vợ chồng ông đã bỏ xứ ra biển để yên thân.
Số phận đã đưa cả nhà ông đến hòn Mây Rút Ngoài, một hoang đảo nằm nghiêng về hướng tây nam đảo Phú Quốc, sau khi họ đã đặt chân đến hàng chục hòn đảo khác nhau. Bà Tám Nữ kể: “Lúc này, bộ đồ độc nhất của anh chị em tôi rách hết. Đói, cả nhà kéo lên rừng đào khoai rạng ăn trừ cơm. Khát, cả nhà chia nhau khoét đất tìm mạch nước ngọt. Nấu ăn, men theo vách đá cặp mé biển để cạo muối dính lại khi thủy triều rút... Ban đêm đốt củi đuổi muỗi mòng thì rắn cạp nia từ rừng kéo xuống bao vây...”.
Lúc ấy bà Tám Nữ mới 8 tuổi, cũng là thành viên nhỏ nhất theo cha mẹ trên bước đường lưu lạc. Sau bà, gia đình có thêm 8 thành viên nữa. Cụ Thiêu kể sinh đẻ giữa đảo làm gì có mụ đỡ, một tay ông Bảy Yên đứng ra làm mụ cho vợ. Khi đó, sinh được hai, ba ngày thì cụ Thiêu lại ra biển kiếm sống.
Thời gian sau, nghĩ không thể sống suốt đời ở đảo hoang này được, họ kiếm được chiếc xuồng để thỉnh thoảng vượt biển chèo vào mũi An Thới. Bắt được cá, nuôi được gà, bà Tám Nữ lanh lợi nhất nhà được phân công vượt biển vào chợ. “Lúc đó tui chỉ có quần cụt, áo rách nên người ta nhìn mình thấy lạ lắm”, bà Nữ nhớ lại.
Tám Nữ được cả chợ An Thới biết tới, bảo bọc. Số tiền kiếm được ngoài mua lương thực, câu, lưới thì một thứ không thể thiếu là… rượu. Cụ Thiêu nói chồng mình có thể uống rượu ngày đêm không say. Có lần buồn chí, ông uống một mình hết 5 lít rượu. Rồi ông bảo các con có muốn theo kháng chiến thì cứ đi. Nghe lời ông, lần lượt những người con vào đất liền cầm súng. Có người ra đi mãi không về lại đảo.

Quyết không bỏ đảo

Hòa bình, những người từng được ông Bảy Yên giúp đỡ làm chức to đã đến hỏi ông cần gì họ sẽ giúp. Ông Bảy Yên nói ông chỉ có một nguyện vọng duy nhất là vợ con, cháu chít của ông được sống yên ổn trên hòn đảo này.
Trong các con gái của ông Bảy Yên, nếu bà Nữ có tài leo cây như sóc, thì người em gái là Phạm Thị Út lại có tài đi biển. Bà Út cắt đầu húi cua, thường ôm tàu đi đánh cá một mình. Một thời, người đi biển vẫn hay tranh luận về tay ngư phủ đầu trọc, quần đùi ưa đi một mình là trai hay gái? Bà Út hay tự suy nghĩ và một mình thực hiện chứ ít khi bàn tính với ai. Như chuyện bà bơi từ hòn Mây Rút qua Hòn Dơi, lúc hòn đảo này là lãnh hạc của các loại thú bay. Thế rồi một tay khai phá, trồng cây xanh mướt một sườn đảo.
Biết chuyện, người của cơ quan chức năng ra hỏi ai khai hoang Hòn Dơi, bà Nữ đáp: “Một tay con Út đó. Mấy chú không cho nó trồng cây, giữ đảo thì bọn xấu tới là khó giữ”. Nghe có lý, họ làm thinh cho bà Út tiếp tục trồng cây trên đảo.
Cuộc sống cứ quần quật với biển, với rừng, bà Nữ nói lúc trẻ chị em nhà mình giống như con trai vậy, ít khi phải nghĩ đến có chồng. Mãi đến khi người ta dẫn các chàng trai từ đất liền ra mai mối. Chỉ cần một lời hứa sẽ cùng bám trụ với đảo, thế là họ cũng đã nên vợ nên chồng.
Quần đảo An Thới với những hòn đảo giăng đá ngầm chằng chịt có thể là chiếc bẫy cho những người mới tới. Không biết bao nhiêu lần, hòn Mây Rút trở thành chiếc phao của những người gặp nạn. Có bận gia đình bà giải cứu đến 20 người một lúc, khi tàu họ đâm phải đá ngầm ở hòn Kim Quy. Thế là nhà có bao nhiêu gạo cũng vét hết nấu cho người gặp nạn; tiền nhà dành dụm được bao nhiêu cũng cho hết để các nạn nhân làm lộ phí về quê.
“Mình sống thiếu thốn quen rồi, nên tiền bạc có hay không cũng đâu phải tất cả”, Tám Nữ nói những hòn đảo lân cận nhiều người cố cựu đã bán để lấy tiền, có người đã nhận hàng chục tỉ để vào đất liền. Hơn 10 năm trước, có người mang 3 tỉ đồng đến hỏi mua đảo để làm du lịch. Dù chưa bao giờ nghe nhắc đến tiền tỉ, huống gì thấy trước mặt, nhưng mẹ con bà Nữ đã thẳng thừng từ chối.
Bà Tám Nữ nói với chúng tôi rằng hòn đảo này do cha của chị khai phá, muốn đời con cháu lấy đây làm chốn sinh cơ. “Nếu có bán thì chỉ có ba tôi mới bán được”. Mà ông Bảy Yên đã nằm lại ở đảo này từ nhiều năm nay, thọ 86 tuổi

Ám ảnh xác trôi

 

“Ông xấu quá, tôi chết lạnh lẽo nhưng xin ông cho lên đảo ông cũng không cho”! Quá lâu rồi, nhưng câu nói đó thỉnh thoảng lại về cắn rứt trong giấc mơ của người “chúa đảo” Hòn Dê.

Xác người “ghé” đảo

“Nhưng mà làm sao tôi cho ở được, trên đảo các con tôi còn nhỏ… trách tôi chịu, nhưng lúc đó tôi phải quyết định vậy thôi”, ông Năm Sư (Phạm Văn Năm, “chúa đảo” Hòn Dê, xã Sơn Hải, H.Kiên Lương, Kiên Giang) kể như phân trần.

Vợ chồng ông Năm Sư trên đôi ghe cào rong ruổi khắp biển Tây - Ảnh: Tiến Trình
Đó là buổi sáng mùng 6 tết, không nhớ rõ năm nào, nhưng đã lâu lắm rồi, giờ các con ông đã trưởng thành, đã đi xa để kiếm sống. Còn ông giờ là chủ của nhiều ghe cào ngang dọc vùng biển Tây. Nhưng nỗi buồn thì vẫn còn đó, ám ảnh thì vẫn còn đó.
Đó là những năm quần đảo Bà Lụa thỉnh thoảng lại có xác người “ghé” vào một hòn đảo nào đó. Ông Năm Còn, Chủ tịch đầu tiên của xã đảo này, nhớ lại: "Những năm đó, khi mùa gió chướng về thì xác chết lại tấp vào các đảo ở đây. Những hòn đảo có người thì dân đảo báo cho chính quyền tổ chức đi vớt. Ở xa quá thì họ gọi các ghe cá cùng giúp vớt rồi mang ra đảo hoang Kiến Vàng chôn cất".
Có lần, ngay sáng mùng 1 tết, ông cùng với các ngư dân ở Hòn Heo phải chạy tàu đi vớt người xấu số rồi bó cao su mang đi chôn. Đến khi về tới nhà thì người bám đầy mùi, vợ ông phát hoảng không cho vô nhà. Ông phải bẻ lá chanh, lá quýt để gột rửa nhưng cũng không hết. “Nạn nhân là người đi biển gặp sóng gió cũng có, người đi vượt biên bị nạn cũng có… Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, mình đâu phân biệt là ai, họ chết lạnh lẽo như vậy mình không chôn cất người ta đàng hoàng thì làm sao yên ổn được”, ông Còn tâm sự.
Trong một lần như thế, xác người xấu số trôi vào Hòn Dê, hòn đảo chỉ duy nhất gia đình ông Năm Sư sinh sống. Lúc dạt vào đảo, thân thể nạn nhân đã không còn nguyên vẹn. Thay vì mang lên chôn cất, ông Năm lại lấy cây xô xác người ra xa đảo, xuôi theo gió về hướng Hòn Heo.
Giải thích cho hành động của mình, ông Năm nói lúc đó các con ông đều còn nhỏ, chạy lắt choắt trên đảo. Sợ xác chết lây bệnh tật cho các con thì nguy, nên ông xin người quá cố tha thứ cho… Không nghĩ rằng, hành động đó cho đến giờ vẫn còn ám ảnh. Ông Năm nói thỉnh thoảng lại có người về trách móc ông trong giấc mơ.

Vắt sức để sinh tồn

Ở quần đảo Bà Lụa, gia đình ông Năm Sư cũng thuộc hàng cố cựu. Ông còn nổi tiếng với tính siêng năng, chịu khó và tổ chức nếp nhà rất nghiêm khắc. Ông nói, mình có tuổi trẻ “tứ đổ tường”. Cưới con gái của một chủ tiệm bánh ở Kiên Lương, nghĩ sẽ “dừng bước giang hồ” nhưng ý định không thành. Chiến tranh, vì không muốn cầm súng nên 23 tuổi, ông đã đưa vợ vượt biển ra đảo để trốn quân dịch. Thương chồng, bà Lâm Thị Trúc chấp nhận sống đời bôn ba.
Tuy “cành vàng lá ngọc”, nhưng chẳng bao lâu, bà Trúc lại khiến dân đi biển phải nể nang bởi chẳng những thích nghi rất nhanh với biển cả, bà có thể cầm ghe đi biển chẳng khác gì đấng nam nhi.
Biết đảo Hòn Dê không có nước ngọt, nhưng vợ chồng Năm Sư vẫn xung phong ra khai phá tạo lập cuộc sống. Ông Năm kể, những lần đi tìm nước ngọt là cực hình. Sóng gió là điều không tránh khỏi, nhiều lần chở được nước về gần tới đảo thì bị sóng đánh chìm. Ở nơi nước ngọt khan hiếm, không phải lúc nào đi xin cũng có nước. Có những lần vợ chồng ông phải đi… trộm nước để các con tránh phải chết khát trên đảo.
Sống trong môi trường khắc nghiệt, các con ông cũng được rèn luyện đức tính chịu thương chịu khó. Từ tờ mờ sáng, họ đã được cha mẹ “lùa” vào rừng trồng rẫy, trồng cây ăn trái, kiếm thức ăn cho gia súc… Chẳng bao lâu từ khi vợ chồng Năm Sư bước chân lên đảo, Hòn Dê thay đổi nhanh chóng. Vườn xoài, chanh, ổi, chuối… thay cho cây tạp. Bí, khoai trồng được lại chở ngược vào đất liền bán cho có giá.
Cha mẹ siêng năng, chịu khó, các con ông cũng thế mà noi theo. Nhà sắm được tàu đi đánh cá, họ xung phong ra tận Nam Du, Thổ Chu… Bận bão tố tàu chìm, họ lại nhanh chóng kiếm tiền mua lại chiếc khác. Hòn Dê cô đơn dần được biết đến như là hòn đảo có vườn cây trồng hấp dẫn bậc nhất trong quần đảo.
“Đời tôi bôn ba, tôi muốn con cháu tôi phải khá hơn”, ông Năm tâm sự. Người ta thấy cảnh hằng ngày, gia đình Năm Sư vượt biển đưa lũ trẻ qua Hòn Heo để học chữ mà phải tặc lưỡi. Bà Năm nói, cuộc đời sóng gió của bà đã không nhớ bao nhiêu lần chìm tàu, chìm ghe ở biển. Không ít lần thập tử nhất sinh, nhưng có một lần cách 10 năm trước, mà cho tới giờ nhắc tới bà vẫn còn đau nghẹn lồng ngực.
Cứ mỗi sáng, gia đình bà lại có xuồng đưa đám cháu tới trường. Những đứa lớn đi học thì những đứa nhỏ lại đòi theo tới trường. Thấy đám nhỏ ham học, bà Năm cũng mừng và chiều cháu cho đi theo qua Hòn Heo. Nhưng rồi chuyến về lại Hòn Dê gặp sóng to đánh xuồng bị chìm. Bà Năm cố níu đứa cháu 3 tuổi nhưng cũng bất lực. Cả nhà bà lập tức lao ra biển lặn tìm trong vô vọng...
Năm Sư nói cuộc đời ông tuy đã ra tới tận đảo hoang mà lập nghiệp, nhưng cũng chưa hết những nỗi buồn, uất ức. Vì sống trong môi trường khắc nghiệt, nên sự tính toán để tồn tại, để chu toàn đã ăn sâu như một bản năng.
Tính bộc trực, “không phạm đến ai, cũng đừng ai phạm đến mình” đã khiến không ít người dè dặt. Ngay cả chuyện người ta đến ngỏ lời đưa du khách ra hòn đảo đẹp của ông cũng gặp những cái lắc đầu, ông nói ông không ngại người lạ, nhưng “thấy phiền”.
Giờ đã có của ăn của để. Hai vợ chồng ông lại rong ruổi trên cặp tàu cá lớn. Ngoài những chuyến biển, nếu không ghé qua đảo với con cháu thì vợ chồng ông cho tàu cặp vào Ba Hòn, Bình An để bầu bạn gần xa.
Biển đảo, sóng gió đôi lúc cũng trở nên nhỏ bé và yếu ớt để ông có thể giải tỏa những chất chứa một thời sống khép kín giữa đảo hoang.

'Bí ẩn' chúa Hòn Heo

 

Hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Bà Lụa, cũng là nơi đặt trụ sở hành chính của xã Sơn Hải, một thời từng gắn liền với tên vị hảo hớn mà cuộc đời của ông đến giờ vẫn là một ẩn số.


Hòn Heo giờ xóm làng sung túc nhất quần đảo Bà Lụa - Ảnh: T.T
“Cái thời ban sơ ra đây lập nghiệp, dân đảo luôn cần những người có bản lĩnh dẫn dắt. Nếu không thì không chết vì sóng gió, bệnh hoạn, cũng không yên với cướp biển, lính tráng... Những thứ đó, ông Tư Hạc đối phó được hết. Nên dân ở đây nể ổng, thương ổng. Người ta gọi Hòn Heo này là Hòn Heo ông Tư Hạc”, giọng trầm trong chiều muộn của người đàn ông nhiều trải nghiệm sóng gió đã thúc giục tôi phải tìm kiếm nhân vật mà đến giờ dân đảo vẫn nhắc với sự kính trọng.

Hảo hớn nơi đảo vắng

Sụp tối. Trời bỗng nổi cơn phong ba. Gió từ hướng tây đánh rát mặt người mới tới. Cái bắt tay bất ngờ của ông cụ có nụ cười lịch lãm khiến chúng tôi có cảm giác yên lòng giữa vùng đảo xa lạ này.
Ông Hai Tỷ (Trần Văn Tỷ, 82 tuổi) là người hiểu biết và được người dân gần xa trong quần đảo kính trọng. Ông giữ "kho" chuyện xa xôi của những người mà nếu không có những câu chuyện ấy, tên tuổi của họ cũng sẽ khuất lấp theo những ngôi mộ vô danh trên đảo hoang. Ông Tỷ có thói quen hay lý giải tận tường những gì mình nói ra. Nhưng ông lại không lý giải hết những bí ẩn về ba ông, ông Tư Hạc (Trần Văn Hạc).
Người ta nói ông Tư Hạc là người của Việt Minh, nhưng hết hải tặc, rồi đến Pháp, Mỹ cũng đều tìm đến ông khi họ hiện diện tại quần đảo này. Có người nói ông là một cao thủ võ lâm, cũng có người nói ông là thầy bùa Lỗ Ban, là thầy thuốc... hay hành hiệp trượng nghĩa giúp người.
Ông Tư Hạc ra quần đảo Bà Lụa sinh sống bằng nghề đóng ghe đi biển. Dân đảo còn truyền miệng rằng những chuyến ghe do bàn tay ông Tư Hạc đóng nhỏ lớn bất kể, đều rất an toàn trước sóng to gió lớn. Thậm chí, người tin tưởng còn thêu dệt thêm, ghe của ông đóng đi biển thường trúng hơn các ghe khác... Cứ thế, cứ thế... hình ảnh ông Tư Hạc trở nên vững vàng trong lòng dân đảo, những người lưu xứ ra tận đảo xa này rất cần có một niềm tin.
“Ông nói chuyện người ta rất tin tưởng nên có lời đồn ông có bùa Lỗ Ban”, ông Trương Văn Còn, nguyên Chủ tịch xã Sơn Hải, nhớ lại. Ví như ghe tàu ai bị cướp bóc, ông Tư Hạc sẽ lặn lội tìm tướng cướp để nói chuyện và y như rằng, tàu của nạn nhân sẽ được thả. Hay như các tàu buôn từ Thái Lan, Campuchia chở đường qua đổi cá, mực của dân trên quần đảo cũng được ông Tư Hạc nói chuyện để đảng cướp cho yên ổn làm ăn. Vì nếu họ bị cướp thì sẽ không ai dám giao thương với dân trên đảo nữa. Dù ông biết rằng, nếu căng buồm về hướng tây chẳng bao lâu là lọt vào quần đảo Hải Tặc.

Ông Hai Tỷ (82 tuổi), con của chúa đảo Hòn Heo, Trần Văn Hạc
Thậm chí, có tướng cướp trong băng đảng “Cánh buồm đen” còn kết giao với ông Tư Hạc. Họ cùng nhau khai khẩn đảo hoang và giúp đỡ người cô thế.
Ông Trương Văn Còn nhớ lại quãng đời trai trẻ trôi dạt ra đây trốn lính, ông mới biết tấm lòng của chúa đảo Tư Hạc. Từ những người lánh quân dịch hay các “lao công chiến trường”, bị kỷ luật “cạo đầu khô, tô dầu hắc” cũng từng phải nhờ ông Tư Hạc che chở. Không hiểu ông nói chuyện thế nào mà quân đội Sài Gòn giao hẳn cho ông một khẩu súng ngắn để ông “giữ đảo”.
Mỗi khi cảnh sát dã chiến chuẩn bị hành quân ra đảo thì họ điện cho ông. Khi có lính đất liền ra, nghe tiếng súng ông Tư Hạc thì trai tráng sẽ rút hết lên rừng núi. Ai xui lắm bị tóm được thì chỉ cần một lời của ông Tư là được thả ra. Ông Tỷ kể, ban ngày là thế, còn ban đêm cha con ông chỉ huy trai tráng bẻ dừa chất đầy trên các ghe giấu trong rừng ở mũi Miếu Bà đem về đất liền bán quyên tiền cho quân kháng chiến.

Xây dựng đảo hoang

Ông Hai Tỷ nói gia đình ông ở Ba Động (Trà Vinh). Ba của ông trước tham gia Việt Minh, bị Pháp truy đuổi ra tới tận đảo này. Lúc ông Tư Hạc có mặt, Hòn Heo đã qua 2 đời chúa đảo. Quần đảo âm u với nạn cướp bóc đầy rẫy. Các chúa đảo thật khó lòng để bảo vệ cuộc sống của dân đảo. 2 đời chúa đảo trước là ông Hai Nhu chết bí ẩn được chở qua chôn cất ở Hòn Rễ Lớn. Đến đời chúa đảo Tám Đạm thỏa hiệp được với các nhóm thảo khấu thì bị quân lính từ Ba Hòn ra giết chết.
Giữa vùng biển đảo mênh mông, những người dân tứ cố rất cần có người đứng ra lãnh đạo tinh thần. Không hề có họp hành, bầu bán, nhưng ông Tư Hạc, một người giỏi võ nghệ và uy tín, mặc nhiên được coi như chúa đảo. Dân trong quần đảo được yên ổn làm ăn.
Tuy giỏi đóng xuồng ghe, nhưng ông Tư lại khuyến khích người mới đến khai khẩn đảo hoang. Ông cho tìm khắp các đảo, nơi nào có dừa, có giống cây ăn trái, hoa màu... thì mang về Hòn Heo để trồng. Hàng ngàn cây dừa được nhân ra khắp hòn đảo trong thời gian không dài. Nhờ vậy, Hòn Heo có nguồn "lương thực" vững chắc, dù biển có sóng gió, đất liền có khói lửa binh đao.
Thế nhưng cũng chẳng bao lâu, Pháp đưa quân ra chiếm Hòn Heo, chủ yếu để giành huê lợi. Có lúc người Pháp mang ra đảo đến 500 dân phu, tù khổ sai để canh tác xoài, cà phê... Dân Hòn Heo nghe lời chúa đảo Tư Hạc không làm thuê cho Pháp mà tản cư khắp nơi, người vào Bình An, người đi tìm các hòn đảo khác tá túc...
Mãi đến năm 1954, khi người Pháp rút đi thì dân đảo mới trở lại cất nhà. Chúa đảo Tư Hạc xung phong trở về cất nhà trước, rồi sau đó đến nhà ông Cảnh, ông Đoan, ông Miên... Hòn Heo có lại xóm làng.
Ông Trương Văn Còn nói có lẽ do lúc ly loạn, phải bỏ vợ con lại quê hay nỗi lòng trắc ẩn thế nào mà ông Tư Hạc không lập gia đình ở đảo, chỉ ở vậy, nhận trẻ em cơ nhỡ về làm con nuôi. Các con, cháu ông nay cũng đều thành đạt trên xứ đảo.
Tiến Trình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét