Vua Lê Uy Mục có tên húy là Lê Tuấn, sinh ngày 5.5.1488. Lê Uy Mục là vị vua thứ 8 của nhà Hậu Lê và là con thứ hai của vua Lê Hiến Tông với Chiêu Nhân Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Cận.
Mẹ của vua Lê Uy Mục là người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, Bắc Giang. Lê Uy Mục lên ngôi vào ngày 22.1.1505 sau khi vua em Lê Túc Tông - lên ngôi năm 1504 - mất sớm ở tuổi 17.
Về việc lên ngôi của vua Lê Uy Mục, sách “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” có viết: “Tháng 12, năm 1505, ngày mồng 6, vua Lê Túc Tông sắc dụ triều thần là Bình Sơn hầu Lê Quảng Độ, Cống Xuyên bá Lê Năng Nhượng và các quan văn võ rằng: Bệnh trẫm chưa khỏi, lo rằng việc phó thác nặng nề e sẽ không kham
Con thứ hai của Tiên hoàng đế là Tuấn, là người hiển minh, nhân hiếu, có thể nối được ngôi chính thống, để thừa kế tổ tông, vỗ về thân dân.
Đại thần và các quan hãy hết lòng trung trinh để giúp nên nghiệp lớn. Thân vương nào dám tiếm vượt ngôi trời thì người trong nước cùng nhau giết đi.
Ngày mồng 7, vua ốm nặng. Ngày mồng 8, vua băng hà ở điện Hoàng Cực, có di chiếu cho các quan để tang theo đúng lễ cổ.
Ngày 18, trung quân đô đốc phủ tả đô đốc Bình Sơn hầu Lê Quảng Độ, Tông nhân lệnh Tự ân sứ Lê Năng Nhượng cùng các công, hầu, bá, phò mã, đô uý, các quan năm phủ, sáu bộ, Ngự sử đài, Đông các, Hàn lâm, Lục tự, Lục khoa, đề hình các quan 13 đạo, đến điện Hương Minh kính đón con thứ hai của Hiến Tông là Tuấn lên ngôi Hoàng đế. Đại xá, đổi niên hiệu lấy sang năm là năm Đoan Khánh thứ 1”.
Tuy nhiên, trái với niềm tin về một vị vua “hiền minh, nhân hiếu” mà vua Lê Túc Tông mong muốn, vua Uy Mục hoàn toàn là một vị vua ăn chơi vô độ, ham rượu chè, gái đẹp, tàn bạo giết hại nhiều người vô tội.
Ngay khi vua Lê Uy Mục mới lên làm vua thì giết tổ mẫu là bà Thái hoàng Thái hậu, tức Trường Lạc hoàng hậu của vua Lê Thánh Tông trước đây vì lẽ thái hậu Trường Lạc có ý không chịu lập Lê Uy Mục lên ngôi vua.
Mặc dù theo sự ủy thác của người em là vua Túc Tông, thái tử Tuấn được chọn là người kế vị, song hoàng thái hậu Trường Lạc kịch liệt phản đối.
Theo bà, việc hoàng tử Tuấn là con của kẻ nữ tì, xuất thân hèn kém không được giáo dục tử tế, lên ngôi thiên tử là không thế chấp nhận.
Bà cũng khẳng khái mà nói rằng, hoàng tử Tuấn là kẻ không có tư chất của bậc vương giả.
Sở dĩ hoàng thái hậu Trường Lạc nói vậy là bởi, mẹ của vua Lê Uy Mục là Nguyễn Thị Cận vốn mồ côi cha từ nhỏ, nhà lại nghèo khó nên tự bán mình cho một biên quan nhỏ ở Đông Đô.
Khi người này phạm tội thì Nguyễn Thị Cận bị triều đình bắt vào làm nô tỳ trong Cấm thành. Bấy giờ bà hoàng hậu Trường Lạc đang phải ở cung riêng, bà Nguyễn Thị Cận được vào hầu hoàng hậu ở đó.
Vua Hiến tông, lúc này đang là thái tử vào thăm mẹ, thấy Nguyễn Thị Cận lần đầu đã đem lòng yêu mến, rồi lấy làm thiếp. Nguyễn Thị Cận sinh hạ được hoàng tử Tuấn, rồi qua đời.
Lúc này Kính Phi, vốn là ái phi của vua Hiến Tông, nhận Tuấn làm con nuôi. Hoàng tử Tuấn biết chuyện giữ trong lòng mối thâm thù.
Lên ngôi chưa được bao lâu thì vào tháng 3.1505, khi việc triều chính vừa ổn định, vua Uy Mục đã sai quân đến cung bắt bà nội Trường Lạc đem giết, rồi cho nghỉ thiết triều bảy ngày.
Chép về việc này, sử sách có ghi rằng: “Mẹ vua là Chiêu Nhân hoàng thái hậu Nguyễn thị, huý là Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, lúc bé mồ côi cha, nhà nghèo, tự bán mình cho người ở phủ Phụng Thiên, sau nhà ấy có tội, Nguyễn thị bị tịch thu sung làm quan tỳ, do đó được vào hầu Quản Ninh hoàng hậu.
Khi Hiến Tông còn làm thái tử, thấy có sắc đẹp thì ưa, lấy vào làm phi. Năm Hồng Đức thứ 19 (tức năm 1488), tháng 5, ngày mồng 5, giờ Tý sinh ra vua.
Năm Thái Trinh thứ 1 (tức năm 1504), Túc Tông băng, không có con nối, mẹ thứ là Kính phi Nguyễn thị mưu lập vua ở trong cung cấm, bèn lên ngôi hoàng đế.
Đại xá, đổi niên hiệu, lấy ngày sinh là Thiên khánh thánh tiết, tự xưng là Quỳnh Đô động chủ xưng là Uy Mục Hoàng Đế.
Bấy giờ Nhữ Vi liền đóng các cửa thành lại lập vua lên. Thái hậu có vua đã được lập rồi, có ý không vui. Sau vua liền sai quan hầu cận ngầm giết Thái hậu rồi nghỉ chầu 7 ngày”.
Không chỉ giết bà nội của mình mà từ khi lên ngôi, vua Lê Uy Mục còn đem lòng nghi ngờ ghen ghét bầy tôi, kẻ nào trước không chịu phụ họa cho vua được lên ngôi thì đều bắt giết, trong số này có cả quan Lễ bộ Thượng thư là Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là Nguyễn Quang Bật.
Mẹ thứ là Kính phi không có con trai, nuôi làm con mình, có ý lập làm vua, sợ các đại thần không theo, đem vàng đút lót, nhưng Văn Lễ không nhận. Đến khi Hiến Tông ốm nặng, Văn Lễ và Quang Bật nhận di chiếu phụ tá hoàng thái tử nối ngôi.
Bấy giờ, các thân vương tranh nhau đòi lập, Văn Lễ sợ xảy tai biến trong lúc bối rối, mới vào tẩm điện lấy ấn báu truyền quốc đem về nhà rồi cùng các đại thần văn võ lập Túc Tông lên ngôi hoàng đế.
Vua Uy Mục căm giận lắm. Đến đây, dùng mưu của Khương Chủng, Nguyễn Nhữ Vi biếm hai người làm Thừa tuyên sứ Quảng Nam.
Khi họ đến sông lớn huyện Chân Phúc, vua sai người đuổi theo bắt phải tự tử. Hai người khi sắp gieo mình xuống nước, ngâm thơ quốc ngữ rồi mới mất. Sau đình thần trong bụng ai cũng biết là hai người chết không đáng tội, can vua, vua đổ tội cho Nhữ Vi rồi giết y”.
Không những thế, vua Lê Uy Mục còn bí mật sai người trong cung là Nguyễn Đình Khoa dò xét hết anh em, chú bác xua đuổi người tông thất và công thần về xứ Thanh.
Bởi thế, Kính Vương, tên thật là Kiện, con út của Lê Thánh Tông, em của Lê Hiến Tông, chú của Lê Uy Mục sợ mang vạ mà trốn tránh để vua không thể tìm ra tông tích.
Giản Tu Công Lê Oanh, tức cháu Lê Thánh Tông, con Kiến Vương Tân, cũng chính là vua Lê Tương Dực sau này là chỗ con chú con bác cũng bị bắt giam vào ngục.
Vua Lê Uy Mục còn thể hiện mình là kẻ lạm sát vô tội vạ. Thường ngày, vua sai người đánh nhau làm trò mua vui ngay trong cung điện.
Sử sách ghi lại rằng, một hôm, nhân đi tế đàn Nam Giao trở về, vua Lê Uy Mục cưỡi voi vào cửa Đông Hoa, sai các Ti và quân các Vệ trong Ngũ Phủ, đem voi công đến cho vua tuyển chọn.
Sau đó, vua lại sai các trấn chọn voi đem về kinh đô để chọn lựa thêm một lần nữa. Mục đích của vua Lê Uy Mục chỉ là cốt sao đủ đặt hai Ti là Ngự Tượng và Ngự Mã.
Vua cho bọn quân sĩ ở ti Ngự Tượng đội mũ màu thủy ngân, trên vẽ hoa hồng quỳ. Mỗi ngày, vua sai hai tên giám quân đấu sức với nhau. Hai tên cầm gậy đánh nhau từ cửa Thanh Dương đến ngoài cửa Thái Miếu.
Vua xem việc đánh nhau của hai tên giám quân mà lấy làm thích thú, ban thưởng tiền lụa cho họ. Không những vậy, mặc dù chỉ mới hai mươi tuổi nhưng vua Lê Uy Mục đã có thú vui hết sức man rợ là thích giết người.
Từ khi lên ngôi, đêm nào vua Lê Uy Mục cũng gọi các phi tần, cung nhân vào cung hầu hạ. Vua cùng với các cung nhân, phi tần uống rượu vui say quá độ rồi hành lạc.
Đáng sợ hơn cả là khi say rượu và sau khi hành lạc vui vẻ, vua liền giết luôn cả những cung nhân, phi tần mình vừa mới ôm ấp.
Sở thích giết người của vua Lê Uy Mục khiến cho ai cũng kinh sợ. Nhưng vì quyền uy quyền tối thượng của vua, nên không dám chống đối, hay tìm cách trốn tránh.
Thú vui giết người của vua Lê Uy Mục còn được thể hiện thông qua việc nhà vua ra lệnh cho giết hết những người thời đó bị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, công thần.
Mải mê hành lạc và thỏa mãn những sở thích quái đản của mình, vua Lê Uy Mục không hề chăm lo đến việc nước.
Không những thế, vua Lê Uy Mục chỉ tin tưởng, giao quyền hành cho những người họ hàng bên vợ và bên mẹ. Vậy nên, lúc bấy giờ, quyền bính trong triều đình đều rơi vào tay của bọn ngoại thích.
Mặt đông thì có ngoại thích ở Hoa Lăng, quê của cha nuôi. Mặt Nam có ngoại thích ở vùng Nhân Mục, quê của vợ vua. Mặt Bắc có ngoại thích ở Phù Chẩn, quê của mẹ vua.
Bọn ngoại thích cậy quyền cậy thế của nhà vua, ức hiếp trăm quan, nghìn dâm. Kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân. kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của.
Mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng đều cướp đoạt cả. Nhà nào có đồ lạ, vật quý, chúng đánh dấu chữ vào và đòi lấy. Muôn dân ta oán mà vua vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ.
Các quan người nào ngày trước không lập mình, thì thường giết đi. Rồi chúng tìm mọi mánh khóe để lấy của báu trong thiên hạ. Ác độc hơn, chúng còn giết hại sinh dân, tước đoạt hết của cải trong dân gian.
Thêm vào đó, lúc bấy giờ bọn ngoại thích là Khương Chủng và Nguyễn Bá Thắng tự tiện làm oai làm phúc, quyền thế nghiêng lệch trong triều ngoài trấn, dân chúng không dám cất tay động chân…
Sau này, bọn Thừa Giáo, Thừa Nghiệp đi đường, quan viên và dân chúng trông thấy chúng từ xa một dặm đã phải chạy trốn vào các nhà ở phố xá hàng chợ, đợi chúng đi qua rồi mới dám ra.
Nguyễn Đình Khoa ngầm sai người đến Thừa Hiến phủ huyện các xứ trong nước, tới cả dân gian, cưỡng bắt những con gái chưa chồng, làm khốn khổ nhân dân, khắp nước mất hết hy vọng.
Dân lầm than đau khổ, kêu than, oán hờn mà vua không biết, vẫn tiếp tục ăn chơi, hưởng lạc và bỏ mặc triều chính.
Năm 1507 tháng Giêng, nhà Minh sai Hà Lộ sang làm lễ viếng Hiến Tông Hoàng Đế, lại sai chánh sứ là Hàn lâm viện biên tu Thẩm Đào, phó sứ là Hứa Thiên Tích mang chiếu thư sang phong vua làm An Nam Quốc Vương, lại ban một bộ mũ áo quan võ bằng da và một bộ thường phục. Thiên Tích thấy tướng vua, đề thơ rằng:
“An Nam tứ bách vận vưu trường/ Thiên ý như hà giang quỷ vương?”
Tạm dịch:
“Vận nước An Nam bốn trăm năm rất dài/ Không biết lòng trời như thế nào lại giáng sinh ông vua quỷ sứ.”
Lời thơ của phó sứ nhà Minh nhanh chóng được lan truyền từ triều đình cho đến dân gian. Cũng từ đó, biệt danh “Quỷ Vương” – “Vua Quỷ” gắn với vua Lê Uy Mục.
Về biệt danh “Vua Quỷ”, trong sách “Đại Việt Sử kí toàn thư” có chép rằng: “Vua mới tên huý là Tuấn, còn gọi là Huyên, là con thứ hai của Hiến Tông, anh thứ của Túc Tông, ở ngôi 5 năm, thọ 22 tuổi, bị Giản Tu Công đuổi đánh, rồi bị hại, chôn ở An Lăng.
Vua nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra oai, tàn hại người tông thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành, trăm họ oán giận, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, điềm loạn đã xuất hiện từ đấy”.
Sự tàn bạo, độc ác không có giới hạn của vua Lê Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong dân chúng và trong hàng ngũ quan lại, dòng dõi họ Lê lúc bấy giờ nhất là khi nhà vua xua đuổi người tông thất và công thần về xứ Thanh Hóa và giết các nữ sử nội thần người Chiêm.
Nhiều công thần trước đây bị đuổi, trong đó có Nguyễn Văn Lang là người cùng họ với Trường Lạc thái hoàng thái hậu.
Đại thần tông thất là Nghi quận công Lê Năng Can, vì bất đắc chí, có bài thơ gửi cho Nguyễn Văn Lang và bảo cử binh giết bọn ác đảng.
Văn Lang vốn là người thông thao lược, giỏi binh pháp, khéo xem xét thiên thời, sức khoẻ có thể bắt được hổ. Bấy giờ, Văn Lang đem bọn Chế Mạn làm nô lệ người Chiêm cùng Vũ Bá, Vũ Tiếp và người ba phủ nổi nghĩa quân ở thành Tây Đô, đem quân giữ ở cửa biển Thần Phù.
Trong số các con của Kiến vương Tân bị bắt giam, Giản Tu Công Lê Oanh còn bị giam ở ngục mới đem của cải đút lót người canh giữ, thoát được ra, chưa kịp báo cho mẹ, anh em và vợ, thì phải một mình trốn vào Tây Đô Đến cửa biển Thần Phù, được Văn Lang ra đón, lập làm minh chủ, rồi cùng Văn Lang rèn đúc giáo dài và đại thần Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, Thanh Hóa tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung khởi binh.
Tại đây, Giản Tu Công sai Lương Đắc Bằng viết bài hịch dụ đại thần và các quan, đại ý nói: “Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, mới gần năm năm mà tội ác đã đủ muôn khoé.
Giết hại người cốt nhục, dìm hãm các thần liêu. Bọn ngoại thích được tin dùng mà phường đuôi chó ngang ngược làm bậy, người cứng cỏi bị ruồng bỏ mà kẻ đầu cá ẩn nấp nẻo xa.
Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi.
Vét thuế khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính. Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác, ngạo mạn quá cả Nguỵ Oanh.
Huống chi lại xây cung thất to, làm vườn hoa rộng. Xua dân đi trồng cây, giẫm theo vết xe đổ chất gò Hoa Cương đời Tống; lấp biển xây cung điện, nối gót thói u mê xây cung A Phòng nhà Tần.
Công trình thổ mộc xây lên rồi thay đổi, thay đổi rồi xây lên, dân Hải Dương, Kinh Bắc mệt mỏi, lao đao; tông thất xa hoa, kiêu căng lại ngang ngược, ngang ngược lại kiêu căng, cõi tứ tuyên phiên trấn xôn xao, rối loạn. Cư dân nhức óc, cả nước đau lòng”.
Rồi Giản Tu Công lại sai người làm bài hịch nữa nói rằng: “Đoan Khánh làm vua, họ ngoại chuyên quyền.
Tử Mô làm phường ngu hèn nơi phố chợ làm rối loạn kỷ cương. Thắng Chủng là hạng trẻ ranh miệng còn hơi sữa đã tái oai tác phúc. Đến mức đánh thuốc độc giết bà nội, tàn sát các thân vương.
Theo ý riêng mà giết hại sinh dân, không biết đâu cho thoả; dùng ngón ngầm để vét vơ tiền của, càng mặc sức tham lam. Bốn biển đã khốn cùng, muôn dân đều sầu oán”.
Không chịu được thói hoang dâm, độc ác của vua Lê Uy Mục, nhiều tướng lĩnh đã theo Giản Tu Công nhằm lật đổ ngai vàng của vua Lê Uy Mục.
Vào tháng 11 năm 1509, Giản Tu Công xưng là Cẩm Giang Vương Lê Sùng ở Tây Đô đưa quân về Đông Kinh, Hà Nội.
Do lúc này, vua Uy Mục vẫn đang giữ anh trai Lê Sùng và mẹ của Giản Tu Công Lê Oanh nên bèn bắt giết anh trai Lê Sùng và mẹ của Lê Oanh để thị uy.
Tuy nhiên, điều này càng khiến cho Giản Tu Công Lê Oanh và những người ủng hộ ông thêm nổi giận. Giản Tu Công cùng với các tướng lĩnh, binh sĩ ủng hộ đem quân từ Tây Đô tiến vào thành.
Khi Giản Tu Công từ Tây Đô đem các dinh thuỷ, bộ cùng tiến phát, tiến vào sát thành thì tất cả mọi người trong triều đình của vua Lê Uy Mục đều chạy trốn.
Hoàng hậu Trần Thị Tùng trốn ra đến xã Hồng Mai, náu ở nhà dân rồi tự thắt cổ chết ở miếu chùa. Riêng vua Lê Uy Mục chạy tới phường Nhật Chiêu thì bị một vệ sĩ cũ đuổi theo bắt được, nộp cho Giản Tu Công.
Giản Tu Công Lê Oanh giam vua Lê Uy Mục ở cửa Lệ Cảnh. Tuy nhiên, cũng có thuyết kể lại rằng, khi quân của Lê Oanh tiến sát kinh thành thì vua Lê Uy Mục chạy ra thôn Cập Hối, xã Đông Cao, huyện Yên Lãng.
Nhà vua bị người hành chợ xã ấy đón về nộp cho Nguyễn Văn Lang. Nguyễn Văn Lang đem vua về quán Bắc Sứ giết đi. Sau đó, bọn ngoại thích cũng đều bị giết hết. Song, thuyết này không được sử sách ghi lại nhiều.
Sau khi Lê Oanh vào chiếm kinh thành thì đã bức vua Lê Uy Mục phải tự tử. Vậy là, tháng 12 năm 1509, vua Lê Uy Mục chết, kết thúc bốn năm tại vị và hưởng thọ 21 tuổi.
Mặc dù, vua Lê Uy Mục đã chết nhưng do Lê Oanh hận vua Lê Uy Mục đã giết hại gia đình mình nên sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, cho nổ tan hết hài cốt.
Sau đó, Lê Oanh sai người lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng ở quê mẹ của vua Lê Uy Mục tại làng Phù Chẩn. Khi Lê Oanh lên ngôi thì giáng vua Lê Uy Mục xuống làm Mẫn Lệ công. Sau này, khi vua Lê Chiêu Tông lên ngôi mới đặt tên thụy cho ông là Uy Mục đế.
(Theo NĐT)
Cũng từ mối quan hệ đó mà người anh trai và người em trai của bà là được ban tước hiệu, được triều đình giao trọng trách tiếp tục khai phá thêm đất hoang, chiêu mộ dân chúng, lập ấp dựng làng tại nhiều nơi từ vùng Sen Thủy (tỉnh Quảng Bình hiện nay) cho đến vùng Hạ Bạn (nay thuộc huyện Gio Linh, Quảng Trị).
Chuyện ly kỳ về nữ nô tì xinh đẹp trong trái tim “Vua Quỷ”
Qua những ghi chép của sách sử, dã sử và truyền miệng dân gian, chúng ta có thể thấy về mặt đời tư, tình duyên và hôn nhân của các đế vương thì chuyện cha con vua Lê Hiến Tông, Lê Uy Mục đều lấy nô tỳ làm vợ thật là chuyện lạ hiếm thấy trong lịch sử Việt Nam.
Đời vua Lê Hiến Tông có 6 hoàng tử là Lê Tuân, Lê Tuấn, Lê Thuần, Lê Dung, Lê Trị và Lê Dưỡng; trong số những người con đó, ông đặc biệt yêu quý hoàng tử thứ ba là Lê Thuần vì tính hiếu học, chăm ngoan.
Ngày 17 tháng 2 năm Kỷ Mùi (1499), Lê Hiến Tông ban sắc chỉ cho Thái bảo Sùng Khê hầu Lê Vĩnh, Đô kiểm điểm Cống Xuyên hầu Lê Năng Nhượng:
“Mới rồi nhận được bản tâu của các khanh, lo kế lớn cho tông miếu xã tắc, khẩn thiết xin dựng lập hoàng trừ, Trẫm rất khen ngợi việc đó ...
Hoàng tử thứ ba là Thuần rất ham thích Thi, Thư, dốc lòng hiếu kính, Trẫm đích thân vỗ về dạy bảo, nay đã trưởng thành, Trẫm quyết đoán từ công tâm, cho giữ ngôi Thái tử, thực không phải là bỏ con trưởng lập con thứ, mà là vì thiên hạ chọn người làm vua đó!
Song điện chính Đông cung Trẫm còn đang ở, nên làm cung mới bên cạnh điện và làm sách phong Thái tử, tuyên bố nghi lễ tiết văn, truyền cho Hữu ty chọn ngày cử hành việc đó” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tháng 5 năm Giáp Tý (1504), Lê Hiến Tông băng hà, Thái tử lên ngôi kế vị trở thành Lê Túc Tông, vị hoàng đế thứ 7 của nhà Hậu Lê với niên hiệu là Thái Trinh.
Tiếc là Lê Túc Tông ở ngôi quá ngắn ngủi, làm vua được 6 tháng thì lâm bệnh mất, thọ 16 tuổi, trong thời gian đó, vị Hoàng đế có tính cách hiền hòa này đã làm được nhiều việc có ích, sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét như sau:
“Vua dốc chí hiếu học, thân người hiền, vui điều thiện, xứng đáng là vị vua giỏi giữ cơ nghiệp thái bình, không may mất sớm, tiếc thay!”. Trước khi qua đời, vì không có con để nối dõi nên Lê Túc Tông gọi các triều thần vào để chỉ định đưa người anh thứ 2 là Lê Tuấn lên ngôi vua.
Nếu như Lê Hiến Tông lựa chọn người kế thừa xứng đáng bao nhiêu thì Lê Túc Tông lại có một quyết định sai lầm, để rồi từ khi anh của ông là Lê Tuấn (Lê Uy Mục) lên ngôi, vương triều Hậu Lê bắt đầu suy yếu nhanh chóng.
Mặc dù được em chỉ định nối ngôi nhưng hoàng tử Lê Tuấn gặp sự phản đối của bà nội là Huy Gia Thái hoàng thái hậu (vợ Lê Thánh Tông) và một số triều thần vì không tin tưởng giao phó việc nước vào tay một người tư cách đạo đức không tốt.
Một lý do khác đó là Huy Gia Thái hoàng thái hậu cho rằng Lê Tuấn do người mẹ có xuất thân nô tì hèn kém sinh ra, không thể “nối đại thống được”; vì thế bà muốn lập Lã Côi Vương.
Bấy giờ Kính phi Nguyễn (mẹ nuôi của Lê Tuấn) lập kế cùng hoạn quan Nguyễn Nhữ Vi lừa Thái Hoàng Thái hậu ra khỏi cung sau đó đóng chặt các cửa thành lại, gọi triều thần đến tuyên di chiếu của Lê Túc Tông rồi lập Lê Tuấn làm vua. Khi hay tin, Thái Hoàng Thái hậu đành phải chấp nhận sự đã rồi.
Lê Tuấn lên ngôi, lấy niên hiệu là Đoan Khánh (sử thường gọi là Lê Uy Mục). Vì căm giận chuyện cũ, Lê Uy Mục sai người bí mật giết bà nội (tổ mẫu) rồi dâng thụy hiệu là Huy Gia Tĩnh mục Ôn cung Nhu thuận Thái hoàng thái hậu; sau đó vua còn giết những đại thần từng phản đối không muốn đưa mình lên ngôi, như Nguyễn Quang Bật, Đàm Văn Lễ…
Trong thời gian 5 năm làm vua (1505-1509), Lê Uy Mục trở thành một hôn quân bạo chúa, tàn bạo và hoang dâm, chủ trương giết hại từ tôn thất gồm 26 thân vương là các chú và anh em, rồi đến nô tì người Chiêm trong các điền trang của các thế gia, công thần cũng không toàn mạng sống; bề tôi có công tôn lập là hoạn quan Nguyễn Nhữ Vi về sau cũng bị giết.
Sử chép rằng đêm nào Lê Uy Mục cũng cùng với cung nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết đi. Phó sứ thần nhà Minh là Hứa Thiên Tích khi sang nước ta, trông tướng mạo của vua đã làm thơ gọi Lê Uy Mục là vua quỷ (Quỷ vương):
“An nam tứ bách vận vưu trường/Thiên ý như hà giáng quỷ vương?” (Nghĩa là: Vận An Nam còn dài bốn trăm năm/ Ý trời sao lại sinh ra vua quỷ?). Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết:
“Vua thích uống rượu, hay giết người, hiếu sắc, làm oai, giết hại người tôn thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ oán giận, người đời gọi là Qủy vương, điềm loạn hiện ra từ đấy”.
Hoang dâm tàn ác, đến những người hầu hạ ở nội cung, đầu gối tay ấp đêm đêm với vua còn bị giết nhưng cũng có người lại được Lê Uy Mục đặc biệt yêu mến. Ngoài Hoàng hậu Trần Thị Xuân Tùng và em gái bà là Thái phi Trần Thị Xuân Trúc, vua sủng ái nhất hậu phi họ Lê (không rõ tên), có tư liệu nói bà tên là Lê Thị Thanh, quê ở xã Sa Lung, châu Minh Linh (nay là huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị).
Điều trùng hợp lạ lùng là người phụ nữ đó vốn cũng là một nô tì và việc hai người gặp gỡ cũng rất tình cờ, sách Đại Việt thông sử cho biết như sau: “Bà phi họ Lê, người xã Sa Lung, châu Minh Linh. Nhân vì gia đình mắc tội, bị sung làm nô tì của nhà nước.
Khi vua Uy Mục còn ở tiềm để (nơi ở của hoàng tử- TG), theo học quan vương phó (thầy dạy hoàng tử), bà cũng đến đó học chữ, vua trông thấy, đem lòng yêu. Khi lên ngôi vua liền đón bà vào cung. Bà hầu như độc chiếm tình yêu của vua; được sách phong làm phi”.
Sách Đại Việt thông sử không cho biết nhiều thông tin về nữ nô tì xinh đẹp, thông minh trở thành vợ vua như thế nào, gia thế ra sao mà chỉ chép rằng sau khi Lê Uy Mục bị giết, Vũ Tá hầu Phùng Mại đã cưỡng ép bà vào cung để hầu hạ vua Lê Tương Dực.
Còn theo truyền tụng tại quê hương bà và kết quả nghiên cứu, thu thập tài liệu của Trung tâm Bảo tồn Di tích-Danh thắng tỉnh Quảng Trị từ năm 1995 đến 2009 thì bà phi họ Lê người làng Sa Lung, châu Minh Linh (tức làng Sa Trung, xã Vĩnh Long, Vĩnh Linh, Quảng Trị ngày nay) nhưng quê gốc ở huyện Nam Trực (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), đời cha của bà đã di cư đến đó sinh sống sau cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông.
Bố mẹ qua đời để lại các con thơ dại, cậu ruột là Lê Quang Phú đã đem ba anh em bà về trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.
Ông Lê Quang Phú còn có tên Lê Đại Lang chính là một trong 5 vị tiền hiền thủy tổ các họ Lê Đa, Lê Văn, Lê Phước, Võ, Hồ; được coi là có công khai lập ra làng Sa Lung vào cuối thế kỷ XV và tên làng cũng được lấy theo quê cũ của họ là làng Sa Lung, tổng Sa Lung (nay thuộc huyện Nam Trực, Nam Định).
Khác với những gì ghi trong sách Đại Việt thông sử, truyền tụng tại địa phương cho biết bà phi họ Lê không phải vì gia đình mắc tội mà bị bắt làm nô tì mà là trước khi đi khai khẩn vùng đất mới ở Minh Linh (Quảng Trị ngày nay), người cậu đã gửi bà vào cung phủ để làm người hầu hạ.
Ngoài ra, trong bộ sách “Ô Châu cận lục” do Thượng thư triều Mạc là Dương Văn An hoàn thành năm Qúy Sửu (1553), nội dung ghi chép về địa lý, địa danh, phong tục, con người ở vùng đất Ô Châu (ngày nay là địa phận các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) cũng có phần nhắc đến bà phi họ Lê.
Tại quyển 6 nói về các nhân vật địa phương, phi tần, thân vương, quan lại, khoa mục, công thần, sư tăng, nội quan, phụ nữ tiết hạnh...; có đoạn viết: “Bà phi họ Lê. Bà quê xã Sa Lung, châu Minh Linh, vốn là con gái vào hầu hạ trong cung.
Lúc Mẫn Lệ Vương (tức vua Lê Uy Mục) còn ở tiềm đế và đang theo học với vị vương phó, bà cũng đến học tập ở đây. Vương thấy bà lấy làm vừa ý, hai bên trở nên quyến luyến nhau. Một hôm, Vương dùng chân khèo chân bà, khi về bà đem chuyện ấy kể lại với sư mẫu, sư mẫu nói rằng:
“Vậy là Vương thử lòng con, sau này nếu con thấy Vương làm như thế thì dùng hai tay che chân của Vương lại để tỏ ý thân”. Hôm sau, bà làm đúng như kế của sư mẫu đã bày, Vương rất vừa lòng, từ đó về sau không cố ý chọc ghẹo nữa.
Riêng bà cũng giữ kín mối tình đẹp chẳng hề lộ ra. Đến khi Vương lên ngôi, bà được tuyển vào hậu cung. Vốn là người thông minh nên bà được yêu chuộng hơn cả, vì vậy bà được thăng lên làm hàng phi”.
Thế là nhờ có nhan sắc, lại thêm đức tính cần mẫn, siêng năng, thông minh, hoạt bát nên từ một người hầu, bà được Lê Uy Mục đưa vào hậu cung phong làm Vương phi.
Cũng từ mối quan hệ đó mà người anh trai và người em trai của bà là được ban tước hiệu, được triều đình giao trọng trách tiếp tục khai phá thêm đất hoang, chiêu mộ dân chúng, lập ấp dựng làng tại nhiều nơi từ vùng Sen Thủy (tỉnh Quảng Bình hiện nay) cho đến vùng Hạ Bạn (nay thuộc huyện Gio Linh, Quảng Trị).
Sách "Ô châu cận lục" cho hay anh trai bà vương phi là Lê Viết Đáo còn gọi là ông Phủ được phong là Hiệu lệnh xá nhân tư mã chỉ huy sứ, sau làm Cai tri bản châu Minh Linh, nhờ lập công lớn nên còn được phong tước Tấn Trung tử.
Người em trai (không rõ tên) được phong là Kinh lược sứ, một chức quan đại diện cho nhà vua đi thi hành một sứ mệnh cụ thể và nhất thời, ở đây nhiệm vụ chính của ông là lo việc khẩn hoang, lập làng mới.
Tháng 12 năm Kỷ Tị (1509) Lê Uy Mục bị truất ngôi và giáng xuống làm Mẫn Lệ Vương, sau đó bị giết nên đời sau thường gọi cho bà Vương phi họ Lê là Mẫn Lệ phi hoặc Lê phi.
Sau khi bà mất, người dân nhớ ơn bà và anh, em trai là những người có công trong việc mở mang xóm làng nên đã lập đền thờ ở một số nơi nhưng trải bao biến động tất cả đều bị phá hủy, riêng ngôi miếu chính thờ bà thì vẫn được giữ gìn cho đến tận ngày nay.
Miếu được dựng tại khu vực Lòi Xó Rọ thuộc làng Sa Long (hay Sa Trung, Sa Lung của huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị) được gọi bằng nhiều tên khác nhau như miếu Bà, miếu bà Vương phi họ Lê, miếu bà Chúa, miếu bà Mẫn Lệ phi, Nghè bà Chúa, miếu bà Chúa Dậm,… và thú vị nhất là tên gọi miếu bà chúa Râm với ý coi bà chúa như một cây đại thụ toả bóng râm mát, che chở cho dân chúng.
Các triều đại đều có sắc phong, vật tặng cho bà chúa tại miếu thờ như mũ cửu phụng gắn rồng vàng, áo bào gắn mặt rồng vàng và nhất là một vỏ trấu màu đen- kỷ vật vô giá dành cho một vương phi có công lớn với dân.
Hàng năm mọi người khắp các làng quanh vùng, gần như xóm Cát (thôn Huỳnh Công, xã Vĩnh Tú), thôn Quyết Thắng (xã Vĩnh Trung), thôn Thượng Lập (xã Vĩnh Long), thôn Bàu Dầm (xã Vĩnh Thủy) cho đến vùng xa như thôn Cổ Kiềng, Roong Ré (xã Vĩnh Khê), xã Vĩnh Chấp và Sen Thủy (Quảng Bình) đều đều tổ chức tế lễ vương phi họ Lê tại miếu Bà vào ngày 27/3 (âm lịch) với câu ca lưu truyền:
“Đi đâu cũng nhớ tháng Ba/Hai bảy giỗ bà, tảo mộ vui xuân/ Các nơi nô nức xa, gần/Vĩnh Trung, Vĩnh Thuỷ, Quảng Bình về đây...”.
Đó cũng như lời nhắc nhở của tiền nhân cho hậu thế phải biết ghi nhớ, trân trọng và yêu quý, gìn giữ từng tấc đất mà cha ông ta đã đổ mồ hôi, xương máu để khai phá vùng đất mới, mở rộng cương thổ cho đời đời cháu con.
Qua những ghi chép của sách sử, dã sử và truyền miệng dân gian, chúng ta có thể thấy về mặt đời tư, tình duyên và hôn nhân của các đế vương thì chuyện cha con vua Lê Hiến Tông, Lê Uy Mục đều lấy nô tỳ làm vợ thật là chuyện lạ hiếm thấy trong lịch sử Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét