(LV)
- Do sinh sống trên vùng cao nguyên đá nên nguồn sống chính của người
Cờ Lao ở Đồng Văn (tỉnh Hà Giang) là làm nương rẫy và thổ canh trên các
hốc đá tai mèo. Ngô là cây lương thực chính, ngoài ra đồng bào còn trồng
lúa mạch, đậu răng ngựa, đậu Hà Lan, dong riềng, su hào, rau cải, hành,
tỏi, ớt… chăn nuôi bò để lấy sức kéo, nuôi ngựa để thồ hàng.
Nghề thủ công của người Cờ
Lao phổ biến là đan lát (nong, bồ, gùi, cót, thúng, mủng...), làm đồ gỗ
(hòm, yên ngựa, bàn ăn…) và một số làng đồng bào mở lò rèn sửa chữa
nông cụ.
Người Cờ Lao sống định cư
thành từng bản khoảng 15-20 nóc nhà, xây dựng trên các sườn núi đá tai
mèo ở Đồng Văn hoặc trên các sườn núi đất ở Hoàng Su Phì. Bản của người
Cờ Lao xen lẫn trong bản của người Mông, người Dao. Nhà ở được làm bằng
đất, gỗ, tre, lá, thường có ba gian hai chái. Mái lợp bằng cỏ gianh hoặc
bằng phên nứa, vách nhà bưng ván hay tấm liếp. Riêng đối với nhóm người
Cờ Lao Đỏ làm nhà trình tường.
Trang phục của phụ nữ Cờ
Lao mặc áo giống với áo của phụ nữ người Giáy là áo 5 thân, xẻ ngực chéo
sang nách phải nhưng vạt áo dài đến dưới đầu gối, áo được trang trí
bằng những miếng vải đáp trên ngực áo, tay áo từ giữa ngực sang nách
phải theo mép xẻ. Trước đây người Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Xanh còn mặc thêm
chiếc áo ngắn tay ra ngoài áo dài để phô những miếng vải mầu đắp trên
tay áo trong, chân cuốn xà cạp. Hiện nay chỉ còn lại một số bà già nhóm
Cờ Lao Đỏ là mặc váy, còn nhìn chung các nhóm Cờ Lao phụ nữ đều là mặc
quần.
Tín ngưỡng của người Cờ
Lao là thờ đa thần. Đồng bào tin rằng mỗi người có 3 hồn. Lúa, bắp và
gia súc cũng có hồn. Hồn lúa lại có hồn lúa bố, hồn lúa mẹ, hồn lúa vợ,
hồn lúa chồng. Vì thế mỗi mùa gặt xong, người Cờ Lao phải cúng hồn lúa
vào lễ tiết mùng 5 tháng 5.
Người Cờ Lao thờ cúng tổ
tiên ba, bốn đời. Thần đất là vị thần quan trọng được gia đình và toàn
bản thờ cúng. Ngoài ra, đồng bào còn thờ cúng vị thần ở trên nương (eo
mèo) trên hốc đá ở chỗ cao nhất nương đặt một hòn đá có hình dáng giản
dị, để làm tăng thêm vẻ linh thiêng huyền bí của chủ nương và của mỗi
gia đình.
Về hôn nhân gia đình, dân
tộc Cờ Lao thực hiện hôn nhân một vợ một chồng, cư trú bên nhà chồng và
ngoại hôn dòng họ. Theo phong tục con trai cô được lấy con gái cậu,
ngược lại con trai của cậu có thể lấy con gái của cô. Đồng thời cũng cho
phép thực hiện hôn nhân anh em chồng (anh chết, em lấy chị dâu làm vợ).
Xưa kia tục lệ này có tính chất bắt buộc vì nó có liên quan đến việc
phân chia, kế thừa quyền sở hữu tài sản.
Gia đình của người Cờ Lao
là gia đình nhỏ phụ quyền. Các con đều theo họ cha. Khi sinh con, người
Cờ Lao có tục đốt nhau thai, tro than được bỏ vào hốc đá trên rừng. Con
trai được đặt tên sau 3 ngày 3 đêm, con gái 2 ngày 3 đêm, riêng người Cờ
Lao Đỏ chỉ đặt tên con khi đã đầy tháng. Theo phong tục, đứa con đầu
lòng được bà ngoại đặt tên và tặng quà cho cháu. Trong lễ đặt tên tiến
hành lễ cúng tổ tiên và thần Ghi Trếnh, vị thần bảo vệ trẻ em.
Kèn Pí Lè, một nhạc cụ của người Cờ Lao |
Trong tang ma, người Cờ
Lao có phong tục làm ma hai lần: lễ chôn người chết và lễ làm chay. Ở
người Cờ Lao Xanh, lễ làm chay có thể tiến hành ngay trong ngày chôn
hoặc một vài năm sau mới làm. Người Cờ Lao Đỏ có phong tục xếp đá quanh
mộ, trên 10 tuổi thì xếp một vòng và sau đó cứ thêm 10 tuổi (trên 20,
30…) lại xếp thêm một vòng đá nữa. Người ta phủ kín đất lên các vòng đá
tuổi; trên mộ lại xếp thêm một vòng đá cuối cùng.
Hiện nay, trong khi cả
nước đang đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế thì ở một số thôn, bản
vùng cao biên giới phía Bắc do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn một
nhóm dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế-xã hội thấp hơn
nhiều so với các dân tộc khác, trong đó có dân tộc Cờ Lao thuộc nhóm bốn
dân tộc (Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao) là những điển hình trong nhóm dân
tộc đặc biệt khó khăn, chậm phát triển. Đời sống văn hóa tinh thần của
đồng bào còn nghèo nàn, văn hoá truyền thống đang bị mai một, sự giao
thoa, đồng hóa về văn hóa diễn ra hàng ngày, cả về nhà ở, ngôn ngữ,
trang phục và lễ hội.
Để thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các dân tộc và giúp cho dân tộc Cờ Lao thoát khỏi hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn như hiện nay, từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá truyền thống,
hoà nhập và bắt nhịp với sự phát triển chung của khu vực thì việc thực
hiện các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các dân tộc đặc
biệt khó khăn là hết sức cấp thiết.
Dân tộc Cờ Lao còn có tên gọi khác là Tứ Đư, Ho Ki, Voa Đề.
Nhóm địa phương: Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Đỏ.
Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai thuộc ngữ hệ Thái - Ka Đai.
Theo số
liệu công bố của Tổng cục Thống kê qua kết quả điều tra dân số năm 2009,
dân tộc Cờ Lao ở Việt Nam có 2636 người, cư trú chủ yếu ở huyện Đồng
Văn và Hoàng Su Phì của tỉnh Hà Giang.
|
Phương Linh
Văn hóa hôn nhân Cờ Lao
(LV) -
Dân tộc Cờ Lao thực hiện hôn nhân một vợ một chồng, cư trú bên nhà
chồng và ngoại hôn dòng họ. Trong truyền thống, đồng bào chấp nhận lấy
vợ, lấy chồng đổi nhau giữa các gia đình (con trai nhà này lấy con gái
nhà kia và ngược lại con trai nhà kia lại lấy con gái nhà này).
Đồng
thời cũng cho phép thực hiện hôn nhân anh em chồng (anh chết, em lấy chị
dâu làm vợ, hoặc em chết, anh lấy em dâu làm vợ). Phong tục này trước
kia là nguyên tắc hôn nhân bắt buộc vì liên quan tới thừa kế tài sản,
bảo toàn của cải gia đình dòng họ. Nhưng hiện nay đã có thay đổi, không
còn bắt buộc nữa.
Phong
tục ở rể của người Cờ Lao không phổ biến, nếu gia đình nào không có con
trai thì họ được quyền lấy chàng rể về thờ cúng tổ tiên bên vợ và chàng
rể được quyền thừa kế tài sản nhà vợ nơi mình ở rể. Tục lệ cưới xin của
người Cờ Lao có nhiều bước: dạm hỏi, sêu tết và cưới.
Ngôi nhà Cờ Lao truyền thống tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam . Ảnh: Hồng Anh |
Bên
cạnh cách cưới xin thông thường trong vùng đồng bào Cờ Lao vẫn tồn tại
cách hôn nhân theo hình thức cướp vợ nhưng đây chỉ là nghi thức truyền
thống còn rớt lại và cơ bản vẫn theo sự thuận tình của đôi lứa và đôi
bên gia đình, họ mạc.
Ở đồng
bào Cờ Lao Xanh lúc đón dâu, chàng rể mặc áo xanh quấn khăn đỏ quanh
người. Cô dâu búi tóc ngược thành chỏm trên đỉnh đầu, khi bước qua cổng
nhà, cô dâu dẫm vỡ một cái bát sứ, một cái muôi gỗ.
Ở
người Cờ Lao Đỏ, cô dâu chỉ về nhà chồng một đêm rồi trở lại nhà mình
ngay và ở đó suốt một năm. Thỉnh thoảng chồng mới được sang thăm vợ, sau
một năm mới được đón vợ về hẳn nhà mình. Đây là hình thức hôn nhân cư
trú bên nhà vợ hình thành từ xa xưa vẫn còn sót lại ở người Cờ Lao nhưng
hiện nay tục lệ này đã giảm dần.
Lúc
mang thai, phụ nữ Cờ Lao trải qua nhiều kiêng cữ để mong đẻ dễ và dễ
nuôi con trẻ. Nhau thai đem đốt thành tro than mang vào rừng sâu chôn
nơi hốc đá ngăn không cho lợn dẫm vào, nếu không trời sẽ sinh ra sấm sét
bất lợi cho con người. Sinh con trai sau ba ngày ba đêm, sinh con gái
sau hai ngày đêm bố mẹ làm lễ đặt tên con. Đứa trẻ được tắm rửa, mặc
quần áo mới. Bố mẹ thịt gà cúng thần, cúng tổ tiên, làm lễ trừ tà ma cho
đứa trẻ. Nếu là con đầu lòng thì bà ngoại sẽ là người đặt tên và ông
cậu tặng quà cầu phúc.
Gia
đình dân tộc Cờ Lao là gia đình nhỏ phụ quyền. Trong gia đình thông
thường có vợ chồng và những đứa con. Trong nhiều trường hợp cả ông và
con trai lớn đã có vợ con. Người cha có quyền quyết định những việc quan
trọng của gia đình. Con trai được thừa kế tài sản.
Ngày
nay, người Cờ Lao tiếp thu được nhiều giá trị mới văn minh, tiến bộ
trong tình yêu và hôn nhân. Đặc biệt, Luật hôn nhân và gia đình đi vào
cuộc sống của đồng bào đảm bảo cho những giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp được bảo tồn, phát huy ở gia đình và cộng đồng.
Làng
Văn hóa- Du lịch các dân tộc Việt Nam có ngôi làng Cờ Lao truyền thống
với những mái ấm cổ truyền thân thiết mang dáng dấp nguyên sơ, nguồn
cội. Nơi đây hứa hẹn là nơi sẽ phục dựng để quảng bá những nét đẹp trong
văn hóa gia đình, hôn nhân và sinh hoạt lễ hội của cộng đồng người Cờ
Lao khi bà con luân phiên việc vận hành khai thác và quảng bá.
Ngô Quang Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét