SGTT.VN - Dòng Nhật Lệ từ ngã ba của hai chi lưu phía
thượng nguồn đến cửa bể Đông chỉ gần 20 cây số, nhưng trong lòng nó chứa
bao câu chuyện thú vị về những loài cá nước mặn vượt nguồn nước ngọt
lên rừng để sinh nở. Lại có loài cá bắt lên không dùng dao cắt mà phải
nấu nguyên con, nếu cắt, con cá đắng ngắt kỳ lạ.
Trẻ con sống quanh dòng Nhật lệ thường “lấy” con cá trích ve này làm... thịt.
|
Bữa ngon nhớ đời bên rớ chàm
Có lẽ rớ chàm là cách đánh bắt thô sơ cuối cùng còn lại
trên sông Nhật Lệ và một số vùng khác của Quảng Bình. Người làm rớ chàm
cất chòi trên mỏm sông với bốn cột táu thẩy từ rừng về, mỗi cột dài từ
15 – 30m, đóng cố định xuống sông, trên đó cất chòi nhỏ, gọi là chà và.
Cái rớ dệt rộng cả trăm mét vuông, rớ được cố định bẳng bốn chiếc cọc
cũng làm từ táu bền chắc, neo dưới đáy sông, để cố định bốn chiếc cọc rớ
là các dây thừng bắt chéo. Muốn kéo rớ lên, phải kết nối rớ với chòi
bằng sợi thừng chắc chắn, trên chòi có trục đạp thu dây thừng kéo rớ từ
đáy sông lên. Ông Lại Văn Thạnh (72 tuổi) sống bên kia Bảo Ninh (Đồng
Hới) nói: “Rớ chàm ngày xưa ở sông Nhật Lệ dày đặc, tồn tại mấy trăm
cái. Nó có từ thời tổ tiên của chúng tôi, mấy trăm năm thì chưa ai biết,
nhưng khi chưa vươn ra biển khơi thì rớ chàm là cách để dân chúng tôi
mưu sinh quanh năm từ đông sang hè. Cái ăn, cái mặc, con cái học hành,
có tiền góp vào hội làng hay để đi xa cũng từ đồng tiền thu được của cái
rớ chàm này”.
Khúc sông Nhật Lệ này giờ chỉ khoảng 50 chiếc rớ nằm
rải rác cả hai phía bờ, chúng lặng lẽ giữa cuộc sống hiện đại của thế kỷ
21. Ông Thạnh mời tôi về chòi rớ chàm của ông chơi, ông nói, “Đãi bữa
ăn mà chú không nhớ đời là tui không mời”. Chòi rớ của ông nằm ở ngã ba
sông, trước mặt là sông Nhật Lệ, bên kia có con nước nhập vô là sông Luỹ
kéo từ đông Trường Sơn về. Ông chọn chỗ ngã ba con sông để đón lõng
những mẻ cá mùa mưa. Rớ ông thả xuống chừng 45 phút cất lên một lần. Mẻ
cá mùa thu mỗi đợt kéo đến 4kg cá trích ve. Theo những nhà ngư loại học
nghiên cứu, cá trích ve có lượng đạm gấp sáu lần thịt bò trong mỗi cân
đồng đều. Con cá nhỏ như cá lia thia trưởng thành, ánh lên màu bạc, còn
nhảy đùm đụp trong mẻ, không cần rửa qua nước, ông Thạnh cho vào nồi
nước sôi sục trên chòi rớ, chưa đến ba phút đưa ra, ông mời chúng tôi xì
xụp món canh tươi rói đúng nghĩa. Cái mặn mòi đi theo vị ngọt của cá
ngào lên đến não, các xúc giác bật hẳn lên, nó cứ thế đi thẳng hồn đến
lịm người. Thiệt là bữa ăn nhớ đời!
Những mùa cá vang bóng một thời
Kéo rớ chàm, theo ông Thạnh, chủ yếu nhờ trời, con nước
mùa xuân hạ thì ngày kiếm ít cá bán chừng vài ba chục ngàn, đêm kiếm ít
tôm lúc vừa chạng vạng kiếm cua sông chắc thịt. Bữa thu đông, vào mùa
nước lũ, kéo được nhiều cá trẻng to cả chục ký, có năm may mắn, cha con
ông, có đêm cất được cả tạ cá. Ông còn kể, ngày xưa, cứ đến mùa lũ, cả
con sông Nhật Lệ như mùa hội của người làm rớ chàm, mẻ nào cất lên cũng
thu từ vài chục ký, có khi cả tạ cá.
Nay, phía nguồn hồ đập ngăn bớt, mùa cá bội thu như xưa
cũng dần vắng bóng. Đang kể, ông ra cất lại mẻ rớ mới, một đợt cả cá
đối, cá cơm, nhảy tanh tách. Ông giải thích, cá cơm mùa thu là lạ, còn
bình thường mùa hè, cá cơm vẫn đi từ biển vô, cất nhiều lắm, ăn không
xuể, phơi khô, bán rất được tiền, cá cơm vô sông không biết sao người ta
ăn lại thích.
Chuyện trò với ông mới biết, ngày xưa, cái rớ chàm là
cả gia tài của gia đình, phải vay mượn, thuê thợ mới làm được gia tài
lớn này. Bữa nay, rớ chàm như thứ làm thêm, “làm cho đỡ nhớ con nước”.
Với nghề rớ chàm của ông, không chỉ là cái nghề vô
danh, trong đời sống tinh thần của người làng cát Trung Bính, nghề ấy
còn có vị thờ thần rớ, mâm cỗ khai rớ để tưởng nhớ vị thần ấy trang
trọng như cỗ cúng tổ tiên. Khi lên kéo rớ chài trên chòi, còn có những
câu hò mặn mòi nhớ thương: “Hò ơ, con vượn trên núi nhớ cây nhớ rừng/Con
cá dưới nước nhớ sông nhớ biển/Anh với em thì nhớ thầm thương trộm bên
lưới chàm ơi em”...
Kỳ lạ con cá nâu
Với ông Thạnh, con cá nào bắt lên, ông đều hiểu được
đặc tính đời sống lứa đôi của chúng hay cách ăn từng loại cá thế nào
đúng cách nhất và chúng sẽ xuất hiện thời khắc nào của năm trên con sông
này.
Bao câu chuyện ông truyền đạt đều lạ lẫm, thú vị nhất
có lẽ loài cá nâu nay đã hiếm trên sông. Con cá trưởng thành như bàn
tay, da của nó lốm đốm. Ông Thạnh kể: Thời nó lớn nhất có thể gần mười
ký, bắt nó không cẩn thận, những chiếc xương như lưỡi mác trên kỳ và hai
vây sẵn sàng trương cứng, đâm thẳng vào người, phát độc tố, gây tử vong
nếu không cấp cứu kịp; “Nhưng những con to như thế người ta không bắt,
vì không nồi niêu nào có thể nấu nguyên nó được”.
Và ông giải thích rằng, con cá nâu này nếu chặt ra cho
vừa nồi thì thịt của nó đắng ngắt, rớ chàm chỉ bắt những con vừa ăn để
bán. Đó là kinh nghiệm dân gian mà không thể lý giải vì sao đắng! Cá nâu
sống ở vùng biển hoặc cửa sông nước mặn, mùa mưa lũ, nó tìm về ngược
ngàn nước ngọt ở xã Trường Sơn, phía thượng nguồn Long Đại để sinh nở.
bài và ảnh: Quốc Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét