Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Đình làng Tuyên Bá

Làng Tuyên Bá xưa có tên là Hiệu Bố hay Tuyên Bố, tên nôm là Nắp Chanh thuộc tổng Quảng Bố, huyện Lương Tài. Nay Tuyên Bá là một trong 6 thôn thuộc xã Quảng Phú, huyện Lương Tài.
Theo bản thần tích chữ Hán hiện còn bảo lưu được ở đình Tuyên Bá, Đức thánh “Quốc vương Lã Công Nam Để” sinh ngày mồng 8 tháng 4 năm Bính Tý, tướng mạo khôi ngô, dáng như rồng phượng. Từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, có khí phách; khi trưởng thành là người văn võ toàn tài, học lực thông suốt. Một lần qua trang Hiệu Bố (nay là Tuyên Bố), các bậc phụ lão thấy tướng mạo của ngài khác lạ, biết là vĩ nhân, bèn xin lưu lại lập trường dạy học, giáo hóa nhân nghĩa cho dân. Năm 20 tuổi, do lập được nhiều công lao trong việc giúp Hùng Duệ Vương giữ yên bờ cõi, nên Ngài được nhà vua ban cho thực ấp ở vùng Kinh Bắc. Lã Công bèn lấy trang Hiệu Bố làm thần tử, miễn trừ binh lương, lại ban cho dân tiền, vàng làm của công, mua ruộng, tậu ao; ông còn dạy dân canh tác, khuyên răn nhân nghĩa hòa mục, thương dân như phụ mẫu, ai ai cũng kính phục.
Sau đó Ngài chọn một khu đất linh ở trang Hiệu Bố, thiết lập sinh từ rồi ban cho dân “15 hốt vàng” để bảo vệ trông coi là hương hỏa về sau. Khi vua Thục thay ngôi vua Hùng, Lã Công bèn về đạo Kinh Bắc để nghỉ ngơi dưỡng nhàn, sau hóa vào ngày mồng 4 tháng Giêng. Để ghi nhớ công lao của ông, nhân dân nhiều nơi ở vùng Lương Tài đã lập đền, đình tôn thờ Lã Công làm thành hoàng làng. Trải qua các triều, Lã Công đều tỏ rõ linh ứng, được phong sắc và ban tặng mỹ tự là: Quốc vương Lã Nam Để hộ quốc tí dân đại vương thượng đẳng. Từ đó trở về sau thần càng ling thiêng, che trở cho nước, cứu giúp nhân dân, trải qua các đời đều được phong là “Thượng đẳng tối linh đại vương”.
Qua khảo sát, nghiên cứu và căn cứ vào các tư liệu hiện còn tại địa phương như thần tích, sắc phong, văn bia… có thể xác định đình Tuyên Bá được xây dựng vào khoảng thời Lê Trung Hưng (TK XVIII), đến thời Nguyễn được trùng tu tôn tạo, trở thành một trong những ngôi đình to đẹp trong vùng. Trong kháng chiến chống Pháp, đình Tuyên Bá đã tiêu thổ để không cho giặc lấy vật liệu xây đồn, bốt; ngai, bài vị đức Thánh cùng các đồ thờ tự của đình được rước về chùa thờ phụng.
Năm 2012, được sự nhất trí đồng tâm của toàn Đảng, toàn dân, đình Tuyên Bá được phục dựng trên nền xưa đất cũ theo dáng vẻ truyền thống. Đó là tòa đại đình to lớn kết cấu kiểu chữ đinh gồm 3 gian 2 chái tiền đình và 3 gian hậu cung; bộ khung to khoẻ, vững chắc được trang trí đắp vẽ tinh xảo các đề tài truyền thống “tứ linh, tứ quý” trên các mảng cốn, đầu dư, con rường, đầu bẩy; các tài liệu hiện vật trong đình cũng được sưu tầm, bổ sung và bày đặt rất tố hảo trang nghiêm.
Đình Tuyên Bá còn bảo lưu được nhiều tài liệu, hiện vật cổ quý như: bản thần tích chữ Hán, 7 đạo sắc phong có niên đại thời Lê-Nguyễn; hệ thống hoành phi, câu đối; hậu bành, long ngai, bài vị, mũ áo, cân đai của Thần, bát hương, siêu đao, gươm trường… Những tài liệu hiện vật này là minh chứng sống động của đình Tuyên Bá trong lịch sử và còn cho biết nhiều thông tin về ngôi đình, địa danh hành chính, phong tục tập quán của làng xã Tuyên Bá xưa kia.
Lễ hội truyền thống đình Tuyên Bá được tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm nhằm kỷ niệm ngày Thánh đản; là dịp để nhân dân địa phương thể hiện lòng biết ơn, tưởng nhớ, tri ân công đức của đức Thánh với cộng đồng dân làng. Trong ngày hôi, nghi thức tế rước đức Thánh được tổ chức rất trọng thể, trang nghiêm; phần hội với nhiều trò chơi dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa phương, thắt chặt mối đoàn kết tình làng nghĩa xóm, làm giàu thêm truyền thống văn hóa của địa phương.
Đặc biệt làng Tuyên Bá còn có tục kết nghĩa giao hảo với làng Đào Xuyên (Hưng Yên) và làng Thanh Gia, Lĩnh Mai (cùng xã). Hàng năm vào ngày hội lệ, các làng tổ chức tế lễ giao lưu thể hiện sự đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau giữa các cộng đồng làng xã, một tục lệ đẹp của nhân dân nơi đây.
Ngày 26 tháng 4 năm 2013, đình làng Tuyên Bá đã được UBND tỉnh ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh.
Nguyễn Thị Trọng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét