Đền Sôn nằm ở xóm Sôn, thôn Đại Bái, xã
Đại Bái, huyện Gia Bình. Đây là nơi thờ các vị đỗ đại khoa người làng
Đại Bái vào hai triều đại Lê - Mạc (thế kỷ XVI - XVII).
Đền
Sôn xưa là ngôi miếu nhỏ, được xây dựng trên một gò đất rộng nổi giữa
hồ ven bờ sông Bái Giang nơi dân gian truyền tụng là thế đất “thất ngư
đồng quần” (khu đất có hình dáng như 7 con cá đang quần tụ về một phía).
Sau này ngôi miếu trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa quy mô bề thế
hơn vì vậy nhân dân địa phương gọi theo tên xóm là đền Sôn.
Hiện
nay đền Sôn có quy mô khang trang gồm các hạng mục công trình kiến trúc
chính sau: Nghi môn, sân, đền chính, tả vu, hữu vu tạo mặt bằng kép kín
hình chữ khẩu (hình vuông). Tòa đền chính trùng tu năm Tân Mão (2011)
hướng Tây Bắc kiến trúc hình chữ Nhất (-) gồm 3 gian 2 chái. Mặt trước
xây tường gạch cao quá dạ tàu, 3 gian chính trổ 3 cửa vòm kích thước
bằng nhau, phía trên trang trí “lưỡng long chầu nguyệt”, phía dưới đắp
hoành phi câu đối chữ Hán sơn màu đen, xung quanh đắp nổi diềm văn kỷ hà
và chữ “Thọ” dáng đỉnh, cánh cửa làm bằng gỗ lim theo kiểu “thượng song
hạ bản” chạm khắc “tứ quý”. Mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc, bờ dải đắp
hình “hoa chanh hộp rỗng”. Bộ khung nhà làm bằng gỗ lim, kết cấu vì kèo
theo kiểu thượng “chồng rường giá chiêng” hạ “tiền bẩy hậu bẩy”. Trang
trí chạm khắc tập trung chủ yếu trên các con rường, đầu bẩy, ván bưng đề
tài tứ linh, tứ quý cùng hoa lá cách điệu mang phong cách nghệ thuật
truyền thống.
Đền
Sôn thờ các vị danh nhân khoa bảng làng Đại Bái thi đỗ đại khoa và đóng
góp nhiều công lao với dân với nước dưới hai triều đại Lê - Mạc (thế kỷ
XVI-XVII).
Hiện
tại Đền Sôn còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật cổ có giá trị bao gồm:
Một cuốn mục lục viết bằng chữ Hán “Bản xã khoa mục chư tiên sinh” nội
dung ghi chép về danh vị, chức tước các vị khoa bảng của làng và các bài
văn tế của bản thôn tại đền Sôn. Ba tấm bia đá “Hậu thôn bi ký” dựng
vào các năm Gia Long 2 (1803), Tự Đức 28 (1875), Tự Đức 35 (1882), bia
khắc một mặt ghi chép về tên tuổi, ngày giỗ của những người cung đức
tiền của, ruộng đất được lập hậu tại đền. Hai bia bài vị đá nội dung ghi
“Nguyễn Quý Công tự Thuần Nguyên chi linh vị” (bài vị của cụ Nguyễn Quý
Công tự Thuần Nguyên tiên sinh), “Bản thôn chư tộc các phái tổ tiên
liệt vị” (bài vị của tổ tiên các dòng tộc ở bản thôn). Một quả chuông
đồng đúc năm Bảo Đại 12 (1937).
Một
bức châm chữ Hán tạo tác vào năm Ất Sửu niên hiệu Khải Định 10 (1925)
nội dung ca ngợi truyền thống hiếu học khoa bảng làng Đại Bái: Thiên thu
vọng ấp/Lịch đại hương hiền/Khoa danh hoa kế/Quan nghiệp thiền liên/Ư
kim vi liệt/Tự cổ do truyền/Tốt linh thần miếu/Ư vạn tư niên. Tạm dịch:
Ngàn năm còn vang tiếng/Nối đời có người hiền/Khoa danh nối tiếp
đạt/Đường quan nghiệp kéo dài/Đương thời bao hiển hách/Lưu truyền muôn
đời sau/Miếu thần mãi linh thiêng/Vạn năm vẫn còn đó.
Ngoài
ra còn nhiều đồ thờ tự mới tạo tác khác có giá trị về mặt nghệ thuật
như: Ngai thờ, hương án, cửa võng, chấp kích, đỉnh, chân đèn, bảng ghi
danh các nhà khoa bảng bằng đồng, 2 biển gỗ “Tiến sĩ đồng triều”,
chiêng, trống, bình hoa, hoành phi, câu đối…
Hàng
năm vào ngày mồng 10 tháng Giêng Âm lịch nhân dân Đại Bái long trọng tổ
chức nghi lễ tưởng niệm các vị đại khoa của làng tại đền Sôn nhằm ôn
lại truyền thống hiếu học khoa bảng vẻ vang của địa phương, đồng thời
giáo dục con cháu các thế hệ trong làng phát huy truyền thống tốt đẹp
của cha ông góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
Nguyễn Văn An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét