Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

Chuyện về “công tử hảo hán” Nam bộ - Cậu Hai Miêng

Huỳnh Công Miêng sanh năm 1857, là con trai của tên Việt gian phản bội Huỳnh Công Tấn (kẻ đã chỉ điểm cho Pháp sát hại Bình Tây Nguyên soái Trương Định). Hai Miêng là nhân vật nổi tiếng khắp vùng miền Đông Tây Nam bộ, không phải vì tài năng mà lại vì tính cách của ông ta tạo nên hai chiều dư luận rất khác nhau.
Theo những tài liệu còn lưu giữ ở Thư viện Đại học quốc gia TP.HCM thì đây là nhân vật phục vụ đắc lực cho nhà cầm quyền Pháp trong công cuộc chinh phục Nam Kỳ: … Năm 17 tuổi, Huỳnh Công Miêng, Trần Bá Hựu (em ruột Trần Bá Lộc) Lê Công Phụng, con nuôi của lãnh binh Tấn, được qua Pháp du học Trường La Seyne gần Toulouse.
Sau 4 năm, cả ba không đỗ đạt bằng cấp gì cả, nhưng nói trôi chảy tiếng Pháp, về nước được Pháp cho làm thông ngôn, sau thăng ông Phán, Tri huyện hàm. Đợt sau cậu Hai Miêng có Lê Công Hoàng, Nguyễn Quang Nghiêm (anh em cô cậu với Trần Bá Lộc) đều đậu Tú tài, hồi hương liền được bổ làm Tri huyện ngay.
Gia đình một Hội đồng người Việt thời Pháp thuộc ở Nam kỳ (ảnh mang tính minh họa cho bài viết. Nguồn: Internet)
Trường hợp cậu Hai Miêng lúc mới về nước, Pháp cho cậu phục vụ dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc, hy vọng cậu thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa lập công. Khi Lộc đem quân ra Bình Thuận, Khánh Hoà, Hai Miêng cũng có mặt trong đoàn quân đó. Lần này Lộc lập kế bắt mẹ của lãnh tụ nghĩa quân tra khảo, đe dọa giết để Mai Xuân Thưởng về hàng. Kế sách ấy tuy cũ, nhưng đã gây tàn độc dã man.
Ở một khía cạnh khác, với những truyền miệng dân gian thì đây là một công tử hảo hán, biết bênh vực dân lành. Người ta truyền rằng: Pháp kích động cậu Hai Miêng lập công, nhưng công việc ấy không hợp với bản tính hào phóng của cậu. Cậu vốn ghét những kẻ ỷ mạnh hiếp yếu, bênh vực người cô thế, và rất oán ghét bọn cường hào ác bá. Chán cảnh bị ràng buộc, làm tay sai cho Pháp, cậu trả chức tước Pháp ban cho để sống cuộc đời của một kẻ miễn tử lưu linh, có nghĩa là được miễn sưu thuế, đi đâu mặc tình, không ai được phép hỏi giấy, ngồi ghe hầu chu du khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Cậu Hai Miêng sống cuộc đời ngoại hạng, vượt xa các công thức đương thời. Lúc mới về nước, cậu chỉ thích võ nghệ, luyện côn quyền, múa kiếm. Hàng ngày cậu đi đá gà, uống rượu, hối me (một thứ cờ bạc) thả giàn,… 
Cảnh một nhà giàu ở Mỹ Tho (Tiền Giang) thời Pháp thuộc (ảnh mang tính minh họa cho bài viết. Nguồn: Internet).

Dân gian kể lại rằng có một lần cậu vào thăm quan tham biện Mỹ Tho (tương đương chức tỉnh trưởng bây giờ) với thái độ hống hách khác thường, biểu hiện trong hai câu thơ sau:
Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm/ "Búa xua" (Bon jour) ông tham biện, bạc tiền ông để đâu?
Hành động ấy chứng tỏ hành vi ngang tàng của cậu, không nể bất cứ ai, kể cả viên tỉnh trưởng người Pháp.
Cũng mạch cảm xúc đó, dân gian gán cho cậu Hai Miêng cách hành xử và bản lĩnh của một kẻ khác thường. Có lần cậu đi xuống Giồng Tháp để hốt me, nhiều đàn em theo để mang một bao bạc giấy, thứ bạc con cò, rất có giá trị hồi cuối thế kỷ 19. Cậu Hai Miêng cầm chén hốt me, có các thủ hạ là Bảy Danh, Ba Ngà, Tám Hổ lo vùa tiền và chung tiền.
Sòng me nào có cậu cũng ăn thua rất lớn. Lúc sòng bạc tan, cậu ra về, đi ngang qua một vườn xoài, thấy nhiều trái xoài vừa chín ửng vàng, trông rất ngon lành, cậu kêu chủ nhà hỏi mua. Chủ nhà bằng lòng, đi lấy cây sào tới hái. Cậu cười, nói: Để tôi hái cho, khỏi cần sào!
Nói xong, cậu giậm chân, nhún mình, nhảy lên bứt một lượt mấy trái xoài chín cây. Ai nấy đều khen ngợi.
Trong Thơ Cậu Hai Miêng – tác phẩm khuyết danh, có đoạn mở đầu như sau:
Nam Kỳ có cậu Hai Miêng/ Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công.
Cậu Hai là bực anh hùng/ Ăn chơi đúng bực anh hùng liệt oanh!
Nam Kỳ lục tỉnh nổi danh…
Người Gò Công lớn tuổi, hẳn ai cũng nhớ chuyện cậu Hai Miêng ra tay đánh cặp rằn Tây vì ức hiếp dân phu đào Ao Trường Đua. Khi Pháp cho đào Ao Trường Đua (xung quanh là đường vòng đua ngựa), bắt dân phu trong tỉnh Gò Công phục dịch, làm sưu cực khổ. Họ cưỡng bách lao động như tù khổ sai: ban ngày đào đất, đắp lộ, ban đêm ăn ngủ tại chỗ. Hết toán này tới toán khác thay phiên, còn bị cặp rằn (tức giám thị) đánh đập họ tàn nhẫn nhằm đốc thúc công việc mau hoàn thành.
Một buổi sáng, cậu Hai Miêng đi ngang qua đó, thấy cảnh làm việc quần quật mà còn bị đánh như trâu ngựa. Nổi máu anh hùng, cậu liền thộp ngực một tên cai mã tà hung ác, đấm đá luôn. Cai Phi, cặp rằn đều bị cậu cho ăn mấy bạt tai, rồi cậu bắt họ đội đất chạy lên chạy xuống như mấy người dân đang bị hành hạ. Tay quất roi, miệng cậu quát: Tao đánh chúng bây coi tụi bây có đau như dân phu hay không?
Chuyện về công tử Hai Miêng còn được đẩy xa tới mức hồi trước ở miền Nam, thấy ai ăn ở tánh nết ngang tàng, ông bà ta thường nói:
Cậu Hai, cậu chớ có lo/ Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài.
Lại một câu chuyện khác về chuyện đụng độ giữa cậu Hai Miêng với bọn cường hào ác bá mới nổi lên ở xứ Nam Kỳ thuộc địa. Có một lần đoàn ghe hầu mấy chiếc của cậu Hai Miêng ngao du tới xứ Bạc Liêu. Lúc đó nhằm mùa khô, nhiều ghe chài đến ăn lúa tại nhà các đại điền chủ. Khi ấy, dưới bến sông, trước nhà anh em ông chủ Thời, chủ Vận diễn ra cảnh vác lúa xuống ghe rộn rịp như cái chợ. Ở địa phương này, dân chúng ai cũng ngán hai anh em chủ Thời, chủ Vận. Ông chủ Thời có một cô con gái tên là cô Hai Sáng. Dân chúng khắp trong vùng này không ai dám nói đến chữ Sáng như buổi sáng; hồi sáng mai, mà phải nói lại buổi sớm; sớm mơi... cũng đủ biết thế lực hai ông ấy ra sao.
Khi mấy chiếc ghe hầu của cậu Hai Miêng do thủ hạ chèo đi ngang qua, vô tình ông chủ Thời trông thấy, kêu một đứa bạn (người ở đợ) gần đó, hỏi lớn:Ghe của ai đi dưới sông đó bây?
Nghe câu hỏi phách lối ấy, cậu Hai Miêng tức giận. Cậu cho ghe ghé lại. Thấy cô Hai Sáng đang đứng chơi dưới bến, cậu Hai Miêng liền cho tay chân bộ hạ bắt cô ta trói lại, và kéo lên cột buồm.
Khi biết đó là cậu Hai Miêng, quan tham biện Pháp còn nể, ông chủ Thời xuống nước nhỏ, năn nỉ. Ông thương lượng với cậu Hai Miêng xin chuộc cô Hai Sáng bằng một bao cà ròn giấy bạc. Khi ông chủ Thời năn nỉ xin tha cho cô Hai Sáng, cậu Hai Miêng bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng, rồi gia nhân ôm bao cà ròn đầy nhóc giấy bạc xuống ghe, chèo đi. Từ đó, ông chủ Thời, chủ Vận bớt hống hách với dân làng.
Tuy có học bên Tây, nhưng cậu Hai Miêng cũng có ít nhiều tác phong của bọn du côn do ảnh hưởng của Thiên địa hội. Ông cai tổng Lê Quang Chiểu, người Phong Điền, Cần Thơ, có soạn quyển Quốc âm thi hiệp tuyển, trong đó, có bài thơ ca ngợi cậu Hai Miêng:
Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng?/ Ba mươi tám tuổi du huỳnh tuyền.
Sao lờ Bến Nghé xiêu người ngó/ Khói toả Cầu Kho thăm vợ hiền.
Đúng bực phong lưu trời vội dứt/ Những trang hào kiệt đất không kiêng.
Cho hay khuất bóng danh còn tạc/ Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền.
Đến đây có lẽ chúng ta cũng dừng lại để thử tìm xem vì sao dân gian lại hư cấu hình tượng nhân vật này như vậy?
Có lẽ là khi Tây chiếm Nam Kỳ, mượn chuyện cậu Hai Miêng, các sĩ phu yêu nước tạo ra một nhân vật ngang tàng như vậy vừa kích động tâm lý xem thường Tây và thỏa mãn ẩn ức nỗi niềm mất nước. Người bình dân chân lấm tay bùn, nghe chuyện lưu truyền nọ có phần phù hợp với tính cách hảo hán, hành xử nghĩa hiệp kiểu như nhân vật Võ Tòng, … trong truyện Tàu nên góp phần phát tán.
Cõ lẽ từ tâm lý ấy, nên người bình dân đã cố tạo ra một hình tượng không tì vết. Cậu Hai Miêng trở thành một thứ thần tượng trong người bình dân khắp cõi Nam Kỳ lục tỉnh thời bấy giờ.
Và cậu Hai Miêng trong những câu chuyện truyền miệng kia không hẳn là Huỳnh Công Miêng ngoài đời. Có chăng chỉ là bóng dáng, còn hành động, tính cách được các tác giả tạo ra nó nhằm mục đích khác, ý tưởng khác nhưng lại vô tình tạo nên sự lập lờ khó phân biệt rạch ròi cho hậu thế chăng?
Cuối bài viết này chúng tôi xin cung cấp thông tin Huỳnh Công Miêng mất năm 1895, được an táng trong một ngôi mộ lớn nay nằm trên đường là Trần Đình Xu, TP.HCM.
Út Tẻo (Dân Việt) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét