VH- Miếu Bảo Hà (làng Bảo Hà, xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng) thờ Linh Lang Đại vương - con trai vua Lý Thánh Tông và ông tổ nghề tạc tượng Nguyễn Công Huệ. Ngôi miếu cổ này rất nổi tiếng với pho tượng Linh Lang Đại vương 700 năm tuổi có thể “đứng lên ngồi xuống”.
Tượng Đức Linh Lang Đại vương trong tư thế ngồi và đứng
Bức tượng Đức Linh Lang Đại vương với nét mặt khôi ngô, có hồn như người thực. Ngài khoác hoàng bào, ngồi trên ngai, tay cầm văn tự, có thể đứng lên nhẹ nhàng rồi lại ngồi xuống từ từ khiến người xem ngỡ ngàng. Qua đó, khâm phục tài năng của những người thợ tạc tượng nơi đây.
Từ xa xưa, làng Bảo Hà là một địa danh nổi tiếng ở TP Hải Phòng về nghề truyền thống như tạc tượng, múa rối. Miếu Bảo Hà nằm giữa ba thôn: Bảo Động, Hà Cầu và Mai An. Người dân địa phương quen gọi miếu Bảo Hà là miếu Cả nhằm khẳng định vai trò đứng đầu của ngôi miếu này trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. Miếu thờ Linh Lang Đại vương và ông tổ của nghề tạc tượng là Nguyễn Công Huệ. Miếu Bảo Hà thờ Linh Lang Đại vương - con trai vua Lý Thánh Tông.
Theo thần phả, Linh Lang là con vua Lý Thánh Tông sinh vào tháng Chạp, năm Giáp Thìn (1064), được đặt tên là Hoằng Chân, mẹ là cung phi thứ 9. Linh Lang được sinh ra tại làng ở Trị Chợ, Thủ Lệ (quận Ba Đình ngày nay). Khi giặc Tống xâm lược nước ta, Hoàng tử Linh Lang chỉ huy quân sỹ chống giặc. Trong một đợt hành quân, ngài tới trang Linh Động (làng Bảo Hà ngày nay) dựng đồn binh, luyện tập binh sĩ, tuyển mộ quân. Về sau này để tưởng nhớ công ơn của ngài, dân làng xây miếu thờ trên nền đồn binh xưa. Các triều đại phong kiến sau này như đời vua Cảnh Thịnh, Tự Đức, Duy Tân và Khải Định đều phong sắc cho ngài là Thượng Đẳng thần, dân làng Bảo Hà tôn ngài là thành hoàng và tạc tượng thờ.
Pho tượng có tên gọi là tượng Linh Lang Đại vương có thể đứng lên và ngồi xuống như người bình thường. Bức tượng có từ thế kỷ XIII, tuổi đời trên 700 tuổi với nét độc đáo và kỳ lạ. Không giống các pho tượng được đặt trong các đền đài, miếu mạo, pho tượng thờ Đức Linh Lang Đại vương ở miếu Bảo Hà được tạc cao khoảng 1,7m như người thật, nét mặt khôi ngô, đầu đội vương miện, mình khoác áo lụa bào trong tư thế ngồi trên ngai, tay cầm văn tự. Pho tượng có thể “đứng lên, ngồi xuống” là sự sáng tạo độc đáo, hiếm có của người dân làng tạc tượng Bảo Hà. Người dân địa phương coi bức tượng là một báu vật của làng.
Miếu Bảo Hà
Bí mật của sự chuyển động của bức tượng Đức Linh Lang Đại vương nằm ở cánh cửa của điện thờ nơi có bức tượng. Các nghệ nhân tạc tượng xưa khéo léo kết hợp giữa nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật múa rối cạn, làm ra hệ thống truyền lực kéo đẩy nối giữa cánh cửa với các khớp của pho tượng. Vì vậy, khi mở, cánh cửa sẽ truyền lực lên pho tượng. Bức tượng dần đứng lên và ngược lại, khi cửa khép lại thì bức tượng lại trở về tư thế ngồi ban đầu. Để đóng, mở cánh cửa để bức tượng đứng lên ngồi xuống, chỉ có người quản lý miếu mới có thể làm thuần thục. Sự chuyển động của bức tượng khiến cho những người đến đây trầm trồ khen ngợi về sự tài hoa của người thợ làng Bảo Hà, khiến ngôi miếu này trở nên linh thiêng, kì bí.
Người có công sáng lập truyền dạy nghề cho dân xã Đồng Minh là cụ Nguyễn Công Huệ. Tương truyền, khi giặc Minh đô hộ nước ta, cụ Nguyễn Công Huệ và một số thanh niên bị bắt đi phục dịch và bị đưa sang Quan Xưởng ở Trung Quốc làm việc. Thời gian này, cụ chuyên tâm học nghề chạm khắc, sơn mài và châm cứu. Đến đời Lê Nhân Tông (1443- 1459), cụ Huệ trở về và dạy nghề tạc tượng cho dân làng. Mọi người suy tôn cụ là Tổ nghề tạc tượng và thờ tại miếu Bảo Hà. Nghề tạc tượng và múa rối là nghề truyền thống biểu hiện tinh thần đoàn kết dân tộc, là điển hình của một làng quê yêu nghệ thuật của huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Tổ sư nghề điêu khắc sơn mài Nguyễn Công Huệ
Năm 1991, miếu Bảo Hà được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đây là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa làng nghề. Ngôi miếu do bàn tay của những người thợ tài hoa thế kỷ XIII chạm trổ hoa văn tinh xảo, đẽo tạc những bức tượng đẹp lưu giữ cho đời sau, trở thành địa điểm tham quan hấp dẫn trong tuyến du lịch du khảo đồng quê tại TP Hải Phòng. Các cao nhân trong làng không giấu nổi sự tự hào. Khi đến mùa lễ hội, rất nhiều du khách đến thăm quan miếu Bảo Hà. Họ muốn tận mắt chiêm ngưỡng những nét kỳ lạ, độc đáo của pho tượng Linh Lang, sự linh thiêng, huyền bí của giếng bán nguyệt. Đặc biệt là sự tài hoa được các nghệ nhân của làng đã thổi hồn vào những con rối trong nghệ thuật múa rối nước. Tất cả tinh hoa văn hóa, tinh thần đoàn kết trong cộng đồng cư dân trồng lúa nước thể hiện trong lễ hội truyền thống làng Bảo Hà. Lễ hội này được tổ chức hai năm một lần vào ngày Rằm tháng 3 Âm lịch, thời gian kéo dài khoảng 3 ngày.
Ngày nay, làng Bảo Hà ngày ngày vẫn vang lên tiếng đục chạm, mài gỗ từ các xưởng tạc tượng. Những người thợ tạc tượng Bảo Hà xuất sắc như: cụ Hoàng Đình Ức, được phong chức Cục phó Cục Tạc tượng, tước Nam vào năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), Diệu nghệ bá Tô Phú Luật. Trong đó, phải kể đến Kỳ tài hầu Tô Phú Vượng, người gắn liền với giai thoại “7 hạt gạo nếp tạc thành đàn voi”. Tương truyền, vua Lê Cảnh Hưng mời ông Vượng vào cung tạc ngai vàng. Sau khi tạc xong ngai vàng, do sung sướng vì tạo ra một kiệt tác, ông liền ngồi thử lên ngai. Bị thái giám phát hiện và tâu với nhà vua, ông Vượng bị khép tội “khi quân phạm thượng”, bị nhốt vào ngục tối chờ ngày xử trảm. Sống trong ngục, ông Vượng thấy buồn, nhìn cọng rơm nếp sót lại vài hạt thóc nên ông liền bóc vỏ trấu, trau chuốt 7 hạt gạo nếp thành 7 con voi với các tư thế khác nhau. Chuyện về đàn voi tí hon được truyền đi khắp nơi. Khi biết chuyện, nhà vua rất cảm phục tài năng của người thợ tạc tượng tài hoa nên đã tha tội, phong cho ông Tô Phú Vượng tước Kỳ tài hầu, cho về quê mở mang, lưu truyền nghề nghiệp.
Hải Đăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét