Lời tiên đoán trớ trêu
- Trần Hưng
- •
Sử Việt chứng kiến nhiều trường hợp những người bạn đồng liêu, đồng học cùng giúp nhau lập nên nghiệp lớn, nhưng cũng có những trường hợp thật trớ trêu khi kẻ làm quan, người làm giặc.
Nói đến chuyện trợ giúp lẫn nhau thì phải kể tới chuyện Đôi bạn nhờ nói khích nhau mà đỗ tiến sĩ; hay chuyện Bốn người bạn sinh cùng năm, chết cùng năm, làm nên nghiệp lớn. Thế nhưng lịch sử cũng chứng kiến một đôi bạn từ thời ấu thơ, học cùng một thầy, nhưng từ nhỏ đã thể hiện chí hướng khác nhau, và trớ trêu thay lịch sử lại để họ trở thành đối thủ của nhau trên chiến trường.
Thuở ấu thơ học cùng thầy, chí hướng khác biệt
Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu tuy cùng sinh ra ở Hải Dương, nhưng trong hai gia cảnh hoàn toàn khác nhau. Phạm Đình Trọng là con trai thứ hai của quan Phạm Huy Ánh hàm Thái tử Thái bảo; trong khi đó Nguyễn Hữu Cầu là con trong một gia đình nông dân.
Thuở nhỏ gia đình Nguyễn Hữu Cầu rất nghèo khó, dù thế ông vẫn chịu khó học hành. Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng học cùng một thầy nên quen biết và dần dần hiểu nhau. Nhưng cả hai lại có thành kiến với nhau.
Một hôm thầy đi đám, thầy liền cho hai học trò đi theo. Lúc về, nhà đám có cho thủ lợn. Cầu và Trọng không ai muốn xách thủ lợn. Thầy liền ra về đối, ai đối không được phải xách thủ lợn.
Thầy đọc: “Huề trư thủ.” (nghĩa là: xách đầu lợn).
Trọng đối lại: “Phan long lân.” (nghĩa là: vịn vây rồng)
Cầu lại đối rằng: “Diệt Tần phá Sở.”
Thầy liền cầm cây quạt gõ lên đầu Cầu nói rằng đối không chuẩn, thừa chữ và phải xách thủ lợn. Cầu cãi rằng: “Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng!”

Một lần khác thầy ra về đối: “Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo.”
Trọng đối rằng: “Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc.”
Còn Cầu đối: “Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động.”
Nghe hai trò đối xong, thầy bảo: “Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc!”
Từ đó thầy cũng không muốn dạy Cầu nữa, nên Cầu tìm thầy khác tiếp tục việc học hành.
Một hôm nhà ông thầy mới có việc phải mổ bò đãi khách, nhân đó thầy ra vế đối: “Tề hoàng ngưu.” (nghĩa là: giết bò vàng)
Cầu nhanh nhẩu đối ngay rằng: “Trảm bạch xà” (nghĩa là: chém rắn trắng – rắn trắng trong truyền thuyết tượng trưng cho khí số nhà Tần, bị Lưu Bang chém chết – hàm ý rằng Cầu muốn lật đổ triều đình hiện tại)
Thầy bảo đối thế là sai luật, Cầu đáp: “Tôi chỉ cốt lấy ý chứ không cần luật. Vả lại ‘giết bò vàng’ đối với ‘chém rắn trắng’ mà không đúng luật à?”
Thầy liền động viên: “Thế thì mày có chí lớn đấy! Cố lên con ạ!”
Kẻ làm cướp, nổi dậy
Sau đó Nguyễn Hữu Cầu học võ, lớn lên gia cảnh quá nghèo nên đành tập hợp trai tráng làm cướp.
Lúc này tại Triều đình, chúa Trịnh Giang lấn át vua Lê, chỉ lo ăn chơi sa đọa, sưu cao thuế nặng khiến người dân oán thán (Xem bài: Làm ác gặp ác báo: Vị Chúa trong sử Việt phải chui nhủi dưới hầm suốt 20 năm cuối đời). Các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Năm 1739 Nguyễn Hữu Cầu gia nhập cuộc khởi nghĩa của hai anh em Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ ở Ninh Xá.
Nguyễn Hữu Cầu nhanh chóng tỏ ra là một tướng tài ba qua các trận đánh, dần dần nhận được sự tin yêu của Nguyễn Cừ. Nguyễn Cừ quyết định gả con gái cho Cầu.
Bởi có tài cả văn kiêm võ, lại bơi lội rất giỏi nên Nguyễn Hữu Cầu được gọi là quận He. He là tên loài cá ở biển Đông, bởi Hữu Cầu bơi khoẻ và hùng dũng nên được gọi như vậy.
Năm 1741, cuộc khởi nghĩa bị thất bại, thủ lĩnh Nguyễn Tuyển bị hạ sát, Nguyễn Cừ bị bắt. Hai tướng trụ cột là Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu tiếp tục lãnh đạo quân lính, nhưng tách ra thành hai cánh quân khác nhau.
Nguyễn Hữu Cầu đem quân tiến đánh núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn, dù gặp không ít khó khăn nhưng cuối cùng quân của Cầu chiến thắng. Nguyễn Hữu Cầu xây dựng Đồ Sơn thành căn cứ vững chắc.

Trong khi đó Hoàng Công Chất dẫn cánh quân của mình hoạt động ở Sơn Nam. Cánh quân này giỏi thuỷ chiến, thường ra vào nơi cỏ rậm bùn lầy không để lại dấu tích.
Hai cánh quân Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất liên minh với nhau khá chặt chẽ gây cho quân Trịnh tổn thất rất lớn.
Sau những trận thắng lớn, thanh thế quân Nguyễn Hữu Cầu ngày càng truyền đi. Các sử gia đều đánh giá Nguyễn Hữu Cầu là người lắm mưu mẹo, có những lúc bị bao vây đến mấy lớp thế nhưng Nguyễn Hữu Cầu vẫn thoát được ra ngoài.
Người làm quan, thống lĩnh ba quân
Khi Nguyễn Hữu Cầu không được thầy muốn dạy tiếp nữa, nên phải chuyển sang học thầy khác, thì Phạm Đình Trọng vẫn dùi mài kinh sử.
Năm 1739 là thời điểm Nguyễn Hữu Cầu gia nhập cuộc khởi nghĩa, thì cũng chính là thời điểm Phạm Đình Trọng dự thi lần đầu và đỗ tiến sĩ, giữ chức Phó đô ngự sử. Sau đó ông được chúa Trịnh Doang phong làm Hiệp thống lĩnh 3 đạo Đông, Nam, Bắc.
Lịch sử trớ trêu
Quân Nguyễn Hữu Cầu nhiều lần đe dọa tấn công vào kinh thành Thăng Long khiến chúa Trịnh lo lắng, cả một vùng rộng lớn thuộc Hải Phòng và Quảng Ninh ngày nay đều lọt vào tay quân của Cầu. Các binh tướng nhà Trịnh ai cũng sợ hoặc e ngại khi đối đầu với quận He.
Trong khi đó, Phạm Đình Trọng được cử phối hợp cùng viên tướng nhiều kinh nghiệm là Hoàng Ngũ Phúc đánh dẹp quân của Nguyễn Hữu Cầu.
Vậy là lời tiên đoán của người thầy khi xưa đã ứng nghiệm: Phạm Đình Trọng làm được quan lớn trong Triều đình, còn Nguyễn Hữu Cầu thì làm giặc. Và trớ trêu thay, họ lại đối mặt với nhau trên chiến trường.
Đối mặt trên chiến trường
Nhận lệnh Triều đình đánh cuộc khởi nghĩa của Quận He, Phạm Đình Trọng tỏ ra tự tin trong cuộc đối đầu với người bạn học thời thơ ấu.
Mong bạn về với Triều đình
Khi hai bên dàn quân, Phạm Đình Trọng ra vế đối rồi cho người đưa đến cho người bạn học thời xưa là Nguyễn Hữu Cầu. Câu đối như sau: “Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ.”
Nghĩa là: chữ “thổ” (土) nếu bỏ đi một nửa nét ngang, để xuôi là chữ “thượng” (上), để ngược là chữ “hạ” (下). Câu này có ý khuyên nhủ Cầu nếu thuận theo triều đình thì có chức, chống lại thì bị diệt.
Với câu đối này rõ ràng Trọng không hề muốn đánh bạn mình, nên có ý khuyên bạn về với Triều đình thì sẽ được phong quan.
Cầu liền đối lại rằng: “Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương”. Nghĩa là chữ ngọc (玉) có một dấu chấm, để lên đầu là chữ “chúa” (主), bỏ đi là chữ “vương” (王). Ý nói chí lớn của mình chẳng làm chúa cũng làm vua chứ không chịu hàng.
Vậy là việc khuyên nhủ không thành, Phạm Đình Trọng buộc phải đối đầu với Nguyễn Hữu Cầu.
Là người hiểu rõ Nguyễn Hữu Cầu, nên dù nhiều người lo ngại khi đối phó với Quận He, Phạm Đình Trọng lại rất bình tĩnh dàn trận. Một trận đánh ác liệt diễn ra tại Xương Giang (nay thuộc Bắc Giang), quân của Nguyễn Hữu Cầu bị thất bại nặng nề, khiến Cầu phải cho lui quân về vùng đồng bằng duyên hải Đông Bắc. Chưa bao giờ quân của Cầu lại bị thiệt hại lớn đến thế.
Trên đường quân Cầu rút lui, Phạm Đình Trọng chia quân truy kích, một tướng thân cận là cánh tay phải của Cầu tên là Thông cùng hơn 10 thuộc hạ bị Phạm Đình Trọng bắt được và xử chém.
Việc này khiến Cầu bị tổn thất quá lớn. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” mô tả rằng: “Thông là người nhanh nhẹn, có cơ mưu, được Hữu Cầu coi như là người ruột thịt”.
Nguyễn Hữu Cầu cho quân của mình rút đến Hạc Động (giáp ranh giữa Hải Phòng và Quảng Ninh ngày nay) để lập căn cứ mới. Nơi đây có địa hình khá hiểm trở nhờ được bao bọc che chở bởi các con sông. Nhờ địa thế này mà Nguyễn Hữu Cầu tránh được các đợt tấn công của Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc, đồng thời có những đợt tấn công bất ngờ gây thiệt hại cho quân của Trọng.

Vì bị Phạm Đình Trọng gây cho nhiều thiệt hại, Nguyễn Hữu Cầu tối tăm mặt mũi, quyết định làm việc bất nghĩa, cho đào mả mẹ của Trọng lên, lấy hài cốt vứt xuống sông. Trọng khóc lóc thề quyết chí đánh bại Cầu.
Cũng chính từ thời điểm này, Trọng đưa quân đánh Cầu không còn chỉ là vì tuân lệnh Triều đình nữa, cũng không mong gì Cầu quy thuận Triều đình như trước nữa, mà là cuộc chiến để trả thù nhà.
Cuộc chiến không khoan nhượng
Nguyễn Hữu Cầu cho quân tiến đánh vùng Sơn Nam, chúa Trịnh Doanh phải điều Phạm Đình Trọng đến giải nguy cho Sơn Nam.
Thấy chúa Trịnh đã điều quân trong thành đi, Nguyễn Hữu Cầu cho quân tấn công thành Thăng Long bất ngờ giữa đêm khuya, nhưng cuộc chuyển quân có phần chậm hơn dự tính, đến sáng thì mới tập kết quân được ở bến Bồ Đề. Chúa Trịnh Doanh phát hiện và điều Phạm Đình Trọng đến giải cứu, đồng thời chúa Trịnh cũng phải thân chinh ra làm tướng đánh chặn quân của Cầu. Nhờ có Phạm Đình Trọng kéo quân đến kịp nên thành Thăng Long được giải nguy.
Nguyễn Hữu Cầu cho quân hoạt động ở huyện Thần Khê và Thanh Quan (nay thuộc tỉnh Thái Bình), đồng thời liên kết với quân Hoàng Công Chất. Quân của Nguyễn Hữu Cầu đi tới đâu quân Trịnh cũng đều sợ hãi. Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” có ghi chép rằng:
Nguyễn Hữu Cầu là người mạnh khỏe, nhanh nhẹn và rất hăng hái, cơ mưu trăm nẻo khó ai lường. Nhiều phen bị vây đến mấy vòng, chỉ một mình một ngựa vượt được ra ngoài, thế mà chỉ vài hôm sau đã có quân đông đến hàng vạn. Khi ra trận, cưỡi ngựa, cầm siêu đao, tiến như bay, quân sĩ ai ai cũng phải sợ mà chạy dạt, đến cả các tướng cũng phải tránh uy phong của hắn. Khi ấy chỉ có Đình Trọng là thề quyết chí giết Nguyễn Hữu Cầu cho bằng được. Triều đình do vậy đã đặt hết niềm tin ở Đình Trọng.
Phạm Đình Trọng lúc này được Triều đình trao binh quyền có thể điều động binh mã ở bất kỳ nơi đâu, nhờ đó mà Trọng huy động được một lực lượng lớn mạnh nhằm tấn công Nguyễn Hữu Cầu. Quân của Cầu bị thua liên tiếp mấy trận liền phải rút quân về Nam Xang và Bình Lục (nay thuộc huyện Lý Nhân và Bình Lục tỉnh Hà Nam), lập căn cứ mới ở đây.
Tháng 2 năm 1751, Hoàng Ngũ Phúc cùng Phạm Đình Trọng đưa quân dọc theo dòng Hoàng Giang (tên của khúc sông Hồng chảy qua huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) tiến đánh vào căn cứ mới của Nguyễn Hữu Cầu. Quân của Cầu thua to, tàn quân chạy đến Nghệ An.
Bấy giờ vùng Nghệ An đang là địa bàn hoạt động của quân Nguyễn Diên, cũng là người quen nguyễn Hữu Cầu. Vì thế mà Nguyễn Diên giúp Nguyễn Hữu Cầu có lương thực và cho đóng ở vùng Hương Lãm chờ thời.
Không để cho Nguyễn Hữu Cầu có thời gian xây dựng lực lượng, Phạm Đình Trọng cho quân đánh gấp vào Hương Lãm. Quân sĩ theo Cầu đã nhiều năm chinh chiến liên miên lại phải đi xa đến tận Nghệ An, nên đã rất mệt mỏi, cố gắng trụ lại nhưng không nổi. Thế đã cùng, Nguyễn Hữu Cầu cùng tàn quân bí mật ra vùng ven biển dùng thuyền đi về phía Bắc.
Thế nhưng gặp phải bão tố, thuyền bị vỡ và đắm gần hết. Quân của Nguyễn Hữu Cầu đành vào lại đất liền, tìm đến dãy Hoàng Mai (ở xã Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An), nhưng chưa kịp hạ trại thì bị quân của Phạm Đình Trọng tìm đến đánh úp. Nguyễn Hữu Cầu bị bắt, bị đóng cũi giải về thành Thăng Long.
Cầu quyết định phá ngục chạy trốn, nhưng việc bất thành, bị bắt trở lại.
Tháng 3 năm 1751, chúa Trịnh quyết định ngày hành hình Nguyễn Hữu Cầu.
Ngay trước hôm hành hình, Trọng lại gần hỏi xem Cầu có cần gì không, nhưng Cầu thản nhiên ngồi hát xướng rất ngang tàng.
Trọng nói: “Anh bây giờ như con chim trong lồng, còn gì mà hát? Nghe nói anh có tài thơ, trong trường hợp nào cũng làm được, vậy anh thử làm bài thơ ‘Chim trong lồng’ xem sao?”
Cầu liền ngâm bài thơ:
Nhất lung thiên địa tàng thân tiểuVạn lý phong vân cử mục tầnHỏi sao sao luỵ cơ trầnBận tài bay nhảy, xót thân tang bồngNào khi vỗ cánh rỉa lôngHót câu thiên túng trong vòng lao lungChim oanh nọ vẫy vùng giậu bắcĐàn loan kia túc tắc cành namMặc bay đông ngữ tây đàmChờ khi phong tiện dứt dàm vân lungBay thẳng cánh muôn trùng tiêu HánPhá vòng vây làm bạn kim ôGiang sơn khách diệc tri hồ?
Trọng nghe Cầu đọc thì đứng lặng hồi lâu, đoạn bỏ đi mà không nói gì.
Hận Cầu làm việc quá tận, đào mả mẹ mình vứt xuống sông, Trọng về quê Cầu quật mộ bố của Cầu và giết cả 3 họ, vợ của Cầu phải tự tử.
Dẹp yên được Nguyễn Hữu Cầu, Trọng được phong làm Binh bộ Thượng thư, tức chức quan cao nhất chỉ huy quân đội.
Thế nhưng chỉ 3 năm sau vào năm 1754 thì Trọng mất, lúc ấy Trọng chỉ tròn 40 tuổi.
Hai người bạn với nhau từ thuở nhỏ nhưng lại luôn đối chọi nhau từ cả chữ nghĩa đến gươm đao. Trước đây những người tin vào tâm linh thường ví hai người dường như có nợ nhau từ kiếp trước. Cầu mất thì Trọng cũng mất theo.

Ngày nay tại quê của Phạm Đình Trọng ở làng Khinh Dao , xã An Thông, An Dương, Hải phòng, người dân đã lập đền thờ cho cả đôi bạn này. Bên cạnh đền thờ Phạm Đình Trọng, có cả đền thờ Nguyễn Hữu Cầu.
Trần Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét