Thứ Năm, 3 tháng 1, 2019

Sài Gòn một thuở

Sài Gòn một thuở là hình ảnh khác xa những gì đang có ngày hôm nay. Chưa hiện đại, nhưng có một cái gì đó rất đặc trưng, rất khó quên… Gợi lại những gì ngày nay không còn nữa, như một hồi ức đẹp, thiết nghĩ không phải là vô bổ.

Phong cách Sài Gòn

Ở đây muốn nói đến phong cách rất riêng của người Sài Gòn vào thời xa xưa ấy mà mãi đến nay vẫn còn có thể bắt gặp ở đâu đó. Chỉ xin kể một mặt nho nhỏ thôi: cái cách kiếm tiền và cách sống.
Thời đó (cách 50 năm về trước), cụm từ “tay làm, hàm nhai” đối với người Sài Gòn là một ý nghĩa “lãng mạn”, dân lao động Sài Gòn đã làm và nhai có khác hơn các nơi trong nước. Một người đạp xích lô (trước kia là xe kéo) lam lũ, cực nhọc “cuốc” từng cuốc, kiếm từng đồng, từng cắc, vậy mà chiều chiều vẫn lai rai “ba sợi” với vài chai “la-de” (la bière La rue – hiệu bia nổi tiếng của hãng BGI thời đó) với tôm khô củ kiệu. Và sáng nào, dù “túng” hay không, bác phu xe vẫn thong thả chất “má bầy trẻ” cùng hàng lố con cái, ra ngồi “tiệm nước” (quán bán cà phê và thức ăn) để chén một bữa no nê. Hôm nào trúng mánh thì cà phê sữa, bánh bao hay hủ tiếu, còn như “thất” thì cũng cho mỗi nhóc tì một cái “giò cháo quẩy” chấm cà phê! Có người hỏi anh ta, tại sao không dành dụm, lại “hàm nhai” hết như thế? Anh ta vô tư trả lời: “Ăn hết rồi kiếm nữa, lo gì!”.
Đó là dân lao động, còn dân thầy, dân cậu thì sao? Tầng lớp này được chia ra làm mấy hạng: loại “dân cậu” là thành phần giàu, ăn chơi sang, đi cao lâu (restaurant) nhảy đầm, đánh bạc. Loại “thầy chú” gồm đa số công chức, tư chức và “thầy chú” còn để ám chỉ dân áp phe, dân “cò bót” (cảnh sát, công an chìm, nổi). Có một khu vực rất đặc biệt ở Sài Gòn, mà ai đi sớm ngang qua đó, là thấy các “thầy chú” ngồi đầy ở các quán nước. Đó là khu Nguyễn Công Trứ (trước gọi là đường Le Fèvre) và chợ cũ đường Hàm Nghi (thời đó gọi là boulevard de la Some). Như một thông lệ, sáng nào họ cũng tụ tập, không thiếu mặt nào của dân áp phe kinh tế tài chánh, vì quanh đó là trụ sở các ngân hàng (có thời nó được gọi là Wall Street của Sài Gòn).
Còn một nơi tụ hội nữa của các “thầy chú” có thời được gọi là “Radio Catinat”, là các quán ở đường Catinat (Đồng Khởi bây giờ). Quán La Pagode, Continental, Givrai, Brodard là bốn nơi ngày nào cũng có mặt các tay thuộc cánh áp phe chính trị, dân nhà báo trong, ngoài nước. Họ gặp mặt trao đổi tin tức, tung tin thật có, vịt cồ có, đủ loại trên đời, để rồi từ đó truyền đi khắp nơi. Bởi vậy, dân Sài Gòn gọi đó là trụ sở của đài phát thanh, hay dễ nhớ hơn với cụm từ “Radio Catinat”.

Sài Gòn với những món ăn

Người Sài Gòn làm nhiều, tiền nhiều, nhưng khoản ăn chơi đã chiếm một phần quan trọng trong sinh hoạt thường ngày của họ. Xích lô, xe kéo còn có máu ăn chơi kiểu đó, nói gì thành phần khác. Sài Gòn bốn mươi năm trước không có nhiều chốn ăn chơi như ngày nay. Nói về quán ăn thì có thể điểm tên một số “cao lâu” của người Hoa như: Đồng Khánh, Ngọc Lan Đình, Ái Huê, Đại La Thiên, Soái Kình Lâm, Á Đông, Bát Đạt, Tân Lạc Viên… và không thể không kể tới các quán “bò bảy món”. Đây là một đặc trưng của món ăn Sài Gòn, cũng như Hà Nội có chả cá Lã Vọng, bánh tôm Hồ Tây…
“Đi ăn ngoài” của người Sài Gòn thời trước không kể các quán cơm thố của người Hoa thì hầu như người nào cũng thích đưa vợ con, bạn bè đi ăn bò bảy món. Nổi tiếng nhất và lâu đời nhất ở Sài Gòn từ trên nửa thế kỷ trước, là quán Au Pagolac (Chợ Lớn) và sau đó là Ánh Hồng (Phú Nhuận). Có người nhận xét rằng, nếu nói về món ăn chơi thì bò bảy món mới đúng nghĩa là để ăn chơi, vì với bảy món trong một bữa, mỗi món chỉ cần ăn một ít, ăn qua một lượt đã tới món khác, do đó, dù bảy món cùng một thứ thịt bò, vậy mà một người có thể thanh toán trọn vẹn cả repas (bữa ăn) một cách thoải mái mà không hề chán ngán.
Sài Gòn một thuở
“Đi ăn đồng quê” là nói đến kiểu “đi ăn ngoài” ở ngoại thành của Sài Gòn thời trước. Sài Gòn trước đây không ngột ngạt người và xe như bây giờ, người ta vẫn thích chiều chiều chở nhau ra vùng ngoại ô Nhà Bè, Bình Chánh, Thủ Đức, vừa hóng gió, vừa thưởng thức các món đặc sản. Phú Lâm, Bình Chánh nổi tiếng với các quán Đồng Quê (ở Phú Định) và Ba Râu (Bình Điền) do có những đặc sản tôm cá rất ngon (món chạo tôm ở Đồng Quê có thể nói là ngon nhất thời đó). Hướng Nhà Bè thì nổi danh với các quán “thủy tạ” trên các ao cá, với các món “độc chiêu” là gỏi cá chìa vôi. Một thời, món cá này là một đặc sản được quảng cáo là “có một không hai”, bởi nghe nói loại cá có cái tên rất lạ này chỉ thấy ở vùng nước mặn Nhà Bè, Phú Xuân (có thể một số nơi khác cũng có, nhưng với tên gọi khác). Thịt cá chìa vôi giòn, ngọt hơn cá chẻm, nên khi trộn gỏi, có vị rất ngon và lạ miệng. Người ăn thích nhất là ngồi trên sàn nhà, có thể nhìn thấy cá lội dưới ao, thích con nào chỉ con đó và sẽ được nhà hàng bắt lên làm ngay trước mặt, dọn ăn nóng sốt sau vài chục phút.
Hướng Thủ Đức thì được dân chơi đêm ưa thích. Các cô cậu thì đi nhảy ở vũ trường đến một, hai giờ sáng, có thể thoải mái chở nhau lên tận Thủ Đức để ăn nem, hoặc bánh canh bột lọc. Thủ Đức còn có một quán ăn đặc sản rất được ưa chuộng là quán Con gà quay với món gà quay cơm nếp độc đáo.

Sài Gòn với những cuộc chơi

Có ăn thì phải có chơi, chơi lành mạnh cũng có, nhưng không nhiều, ngoài các Công viên Bách Thảo (Thảo Cầm Viên), Vườn Ông Thượng (Tao Đàn), người Sài Gòn thời ấy không có những Kỳ Hòa, Đầm Sen như ngày nay. Trò chơi dành cho người lớn thì lại không thiếu. Đó là các vũ trường và các sòng bạc. Những vũ trường tiêu biểu, tồn tại từ trước năm 1954, gồm có: Mỹ Phụng, Đại Nam, Tabarin, Văn Cảnh, Au Chalet Tour d’Ivoire (thuộc vùng Sài Gòn) và Melody (thuộc Chợ Lớn), các “dân chơi” đều thuộc nằm lòng những cái tên ấy và nhẵn mặt từng ngóc ngách vũ trường. Sau này vào thời kỳ Mỹ, mới có thêm các Queen Bee, Ritz, Maxim’s…
Nhưng nổi trội và hấp dẫn nhất có lẽ là các sòng bạc. Người Pháp đã dựng lên ba sòng bạc thuộc loại lớn nhất nước (nếu không muốn nói là lớn nhất Đông Nam Á) tại Sài Gòn từ trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, đó là Kim Chung, Đại Thế Giới và trường đua ngựa Phú Thọ.
Gần 30 năm tồn tại, Kim Chung và Đại Thế Giới đã “thiêu” hàng vạn người mê đỏ đen. Người tán gia bại sản, kẻ thân bại danh liệt. Người ta ví đó là hai chốn địa ngục trần gian giữa hòn ngọc Viễn Đông. Còn trường đua Phú Thọ thì từ khi thành lập, chưa bao giờ là đấu trường thể thao như có người muốn gán cho nó. Đơn thuần, nó chỉ là cái lò sát phạt đỏ đen với bao mưu ma chước quỷ (làm độ, gian lận…) chẳng khác gì Kim Chung, Đại Thế Giới (hai casino này đã bị xóa tên từ năm 1956), giờ đây nếu các bạn muốn biết nó ở đâu thì chính Khu Dân Sinh bây giờ là Kim Chung ngày trước, còn Đại Thế Giới đã trở thành Nhà văn hóa Quận 5 (đường Trần Hưng Đạo B).
Dù không muốn, nhưng cũng không thể không nhắc tới những chôn lầu xanh đầy tai tiếng, nhớp nhúa một thời: xóm Bình Khang (gần rạp hát Vườn Lài quận 10 ngày nay) dành cho khách mua hoa nội địa và khu Borden (giới bình dân thường gọi là Bọt-Đền) ở góc đường Galiéni (Trần Hưng Đạo) và Nguyễn Khắc Nhu (ngày nay là câu lạc bộ Trần Hưng Đạo và dãy nhà của công ty Bách Hóa thành phố), nơi chuyên phục vụ “hoa” cho lính viễn chinh Pháp. Dân hay quân vào các nơi đó, đều được mua vé công khai, giống như mua vé hát hay vé vào vườn Bách thú.
Chuyện hội nhập vào đời sống người Sài Gòn xưa
Về giải trí văn hóa, thì có hai loại hình chính: rạp xi-nê (chiếu phim) và rạp cải lương. Những rạp xi-nê đầu tiên giờ đã biến mất, như Catinat (ở trong hành lang bán tranh bây giờ, ngang hông khách sạn Caravelle phía đường Đồng Khởi), rạp Majestic (bây giờ là nhà hàng dancing Maxim’s), rạp Long Thuận (góc đường Nguyễn An Ninh và Trương Định) và những rạp vẫn còn lưu lại dấu tích như Eden (Đồng Khởi), Casino (Sàigòn, Đakao), Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Nam Việt, Hồng Bàng, sau năm 1954, Sài Gòn mới có thêm Đại Nam (vào đầu thập niên 1960 có thêm Rex), còn khu Chợ Lớn thì có Oscar, Palace (Đồng Tháp và Đống Đa bây giờ) và một số rạp nhỏ khác… về rạp cải lương, hát bội thì có Nguyễn văn Hảo (Công Nhân), Thành Xương (đầu đường Yersin, góc Colonel Grimau – Phạm Ngũ Lão) nay đã hư sập. Vào đầu thập niên 1960, mới có thêm hai rạp Hưng Đạo và Quốc Thanh. Các nhà hát lớn (nhà hát thành phố) thường được gọi là nhà hát Tây và rạp Norodom (rạp Thống Nhất, giờ trở thành hội trường xổ số kiến thiết) chủ yếu dùng để hòa nhạc.
Về khách sạn thì chỉ có hai cái được gọi là “quốc tế” đó là Continental vào thập niên 1950 mới bắt đầu được xây dựng. Hầu hết các khách sạn ở Sài Gòn thời trước chủ yếu chỉ là những “phòng ngủ” nhỏ, được gọi nôm na là “nhà ngủ”, để phục vụ cho dân bản xứ. Đây là nơi xảy ra tình trạng bán dâm và hút á phiện.
Còn nhiều lắm những điều tốt có, xấu có của một Sài Gòn thời xa xưa… Nhưng dù ở mặt nào, Sài Gòn vẫn có nhiều điều để nhớ, nhiều cái không thể nào quên… Nếu có dịp nào đó, ta lại nói đến một số khía cạnh nữa của Sài Gòn một thuở…
Hồng Thượng
Trích từ cuốn “Hảo hán Sài Gòn – Dân chơi Bến Nghé”

Chợ thiệp Sài Gòn
Hồi những năm 70, 80 của thế kỷ trước, Sài Gòn từng có một “chợ” bán thiệp quanh năm nhưng từ khoảng đầu tháng 11 trở nên tấp nập, rộn ràng và tươi vui muôn vàn màu sắc.
Đấy là thời gian Sài Gòn bắt đầu có những ngọn gió se se mát lạnh vào chiều tối, hơi sương lảng bảng quanh những ngọn đèn đường. Những đường phố khu trung tâm hình ảnh Ông già Noel đã xuất hiện sớm trên cửa kính quán xá nhắc nhở người qua đường mùa Giáng sinh đang đến, năm Dương lịch sắp hết. Một thành phố phóng khoáng và mang nhiều nét Tây phương như Sài Gòn thì mùa lễ hội cuối năm thường kéo dài từ Noel đến Tết âm lịch. Từ lúc này Chợ Thiệp ở trước Bưu điện trung tâm bắt đầu vào mùa cao điểm bán Thiệp Xuân.
Một Sài Gòn chưa xa
(Ảnh: Vnphoto.net)
Ngày thường nơi đây có những sạp bán bao thơ, bưu ảnh, giấy viết thư… Thời ấy người ta còn viết thư tay, bỏ bao thơ dán tem và gửi bưu điện. Tại đây bán các loại bao thơ đủ màu trắng xanh hồng tím hoa văn in nổi in chìm đậm nhạt đủ kiểu. Mỗi xấp là chục 12 chiếc cùng một màu hoặc nhiều màu, đơn giản nhất là bao thơ viền sọc xanh đỏ in chữ “par avion”. Bao thơ làm bằng loại giấy mịn màng, dày vừa đủ kín đáo nhưng cũng mỏng vừa đủ là “cánh thư”. Còn giấy viết thư là từng xấp mỏng, có kẻ hoặc không, góc tờ giấy cũng in màu nhạt và hoa văn chìm… Thời mới hòa bình những dòng chữ trên những tờ giấy đẹp như thế đã nối liền biết bao gia đình trong Nam ngoài Bắc. Rồi thiệp sinh nhật, thiệp chúc tốt lành… loại nào khi mua cũng được người bán cho vào chiếc bao nilon trong suốt và kèm theo bao thơ trắng tinh, làm người mua không thể chỉ mua một chiếc.
Vào mùa thiệp Tết sạp bán thiệp nở rộ trên vỉa hè và khoảng trống xung quanh Nhà Thờ Đức Bà. Mỗi sạp đơn giản là một chiếc bàn, hai bên đóng cái khung gỗ treo những chiếc khánh màu đỏ rực rỡ màu vàng lấp lánh xen lẫn những mẫu thiệp mừng Giáng Sinh và mừng năm mới của ta lẫn tây: Giáng sinh An lành, Merry Christmas, Cung chúc tân xuân, Chúc mừng năm mới, Happy New Year, Bonne Année… Vài năm sau tháng tư 75 còn có cả С Новым годом theo trào lưu học tiếng Nga… Thiệp Tây thì có ông già Noel và xe tuần lộc, ngôi nhà ấm áp ngọn đèn trong đên mưa tuyết, cây thông xanh lấp lánh trang kim… Thiệp Tết truyền thống có hình hoa đào hoa mai, cây nêu bánh chưng tràng pháo… dần dần có thêm nhiều thiệp vẽ bụi tre, nhà lá, dòng kinh, cầu dừa, thiếu nữ khăn rằn áo dài tóc bay theo gió… Là để gửi cho những người đã ra đi một chút hình ảnh quê nhà.
Chợ Thiệp bán từ sáng đến tối khi bưu điện đóng cửa vẫn còn vài sạp sáng đèn. Người mua từ già trẻ lớn bé giàu nghèo, từ người Sài Gòn đến du khách… mọi người đều chọn được những tấm thiệp đẹp ưng ý lại vừa túi tiền. Những tấm thiệp không chỉ có lời chúc xã giao lịch sự mà còn gửi gắm bao nỗi niềm thương nhớ…
Sài Gòn có nhiều nơi bán thiệp nhất là gần các nhà thờ, bắt đầu “mùa thiệp” là cho mùa Giáng sinh. Trong các Bưu điện hay nhà sách, các sạp báo và đồ lưu niệm ở đường Nguyễn Huệ cũng bán bưu ảnh thiệp tết… nhưng không đâu đông đúc và nhiều mẫu thiệp đẹp như chợ thiệp ở Bưu điện trung tâm.  Đó cũng là một nơi mà người Sài Gòn chí ít cũng vài lần lui tới trong năm, như đi chợ Bến Thành, đến Thương xá Tax, dạo chơi bến Bạch Đằng… Nó cũng là nơi nhiều du khách nhớ đến bởi sự phong phú của văn hóa Việt tập trung ở đây qua những tấm thiệp muôn màu muôn vẻ.
Từ khoảng cuối những năm 1980 chợ Thiệp vắng dần, vì chất lượng giấy làm bao thơ, làm thiệp ngày càng kém, mẫu mã đơn điệu, chất lượng in lại xấu. Dù nhu cầu về thiệp trong các dịp lễ tết vẫn còn nhưng người ta không còn thói quen dạo chơi và mua thiệp cũng vì chợ đã bị dẹp vì “lấn chiếm lòng lề đường”. Khoảng mươi năm trước Chợ thiệp lại được nhóm họp ở đây với phong trào thiệp hand make: những chiếc thiệp hình vẽ ngộ nghĩnh, trang trí không đụng hàng, trẻ trung, hiện đại… Nhưng cũng chỉ sôi nổi được một thời gian vì internet đã phổ biến.
Bây giờ người ta viết thư gửi thiệp đều qua mạng, chẳng mấy ai còn nhớ đến những cánh thiệp Xuân được bày bán bên hông Bưu điện Sài Gòn thủa trước…
Xích lô Sài Gòn
Xích lô không chỉ là một phương tiện giao thông đặc trưng của đô thị Sài Gòn mà còn là một nét đẹp của văn hoá giao thông ở đây, bởi những lý do sau.
Xích lô Sài Gòn đẹp: năm 1975 từ Hà Nội về nhìn thấy những chiếc xích lô đậu sát vỉa hè những con đường Sài Gòn, tôi đã ngạc nhiên vô cùng: So với phần lớn những chiếc xích lô cũ kỹ thấp lè tè, sàn và ghế chỉ bằng gỗ, miếng nệm nếu có cũng dúm dó cũ mèm ở Hà Nội thì xích lô Sài Gòn thiết kế cao, gọn, nệm mui luôn có sẵn, có khi làm bằng vải hoa vui mắt, nhẹ nhõm, phù hợp với thời tiết nắng gió của Sài Gòn. Xe được lau chùi bóng loáng, tra dầu mỡ thường xuyên nên đạp nhẹ mà chạy nhanh, không có tiếng kêu cót két nặng nhọc làm người ta ngần ngại khi ngồi trên xe mà họ có thể thoải mái ngắm nhìn phố phường.
Một Sài Gòn chưa xa
Xích lô Sài Gòn là một loại dịch vụ đô thị: Do cấu tạo xe, ghế của người đạp xe khá cao nên người đạp có tư thế đàng hoàng hơn, không phải cúi thấp gò lưng nặng nhọc đạp xe, khách và chủ xe có thể nói chuyện thoải mái với nhau suốt cả cuốc xích lô. Phần lớn những người đạp xích lô Sài Gòn ăn nói nhã nhặn, mời chào khách nhưng không chèo kéo hay doạ nạt, khách đi thì cám ơn mà khách không đi cũng… cám ơn luôn. Vui vẻ, sòng phẳng, xích lô Sài Gòn cho thấy sự bình đẳng trong việc cung cấp và sử dụng dịch vụ – một đặc trưng của văn hoá đô thị.
Xích lô Sài Gòn cho biết về người Sài Gòn: dù người đạp xích lô là người nhập cư hay người Sài Gòn thì ứng xử và lối sống của họ cũng khá giống nhau: có thể thấy những bác xích lô khi rảnh rỗi chưa có khách thì mở tờ báo ra đọc, hoặc có người ngồi trên xe lịch sự kéo mũ che mặt ngủ một chút. Họ tự trọng và không mặc cảm vì “thân phận” đạp xích lô. Phần lớn khách đi xe cũng không có thái độ coi thường người đạp xích lô mà tôn trọng, vui vẻ, khi xuống xe cám ơn đàng hoàng. Nhiều người chuyên đạp xe ban đêm vì ban ngày họ mần công chuyện khác, vì vậy người đạp xe ban ngày nếu đến chiều đã kiếm đủ tiền cho vợ đi chợ ngày mai thì thường nghỉ, nhường cho đồng nghiệp làm đêm, có khi cho mượn cả xe vì có người không đủ tiền mua xe riêng.
Do yêu cầu về giao thông, nhất là ở khu vực trung tâm thành phố nên từ nhiều năm nay, xích lô Sài Gòn hầu như không còn tồn tại, những nét văn hoá đẹp như trên cũng dần biến mất. Lưu giữ những chiếc xích lô phục vụ du khách cũng là phục hồi một nét đẹp của đô thị Sài Gòn.
Đêm nhớ về Sài Gòn
Vào khoảng thời gian này, khi khắp nơi nhộn nhịp mừng Giáng sinh và đón năm mới với bản nhạc Happy New Year thì trong tôi lại vang lên giai điệu một bài hát tình cờ được nghe trong một phòng trà trên đường Đồng Khởi, cũng vào một đêm cuối năm…
Lúc ấy, sau một thời gian thành phố sôi lên vì sự đổi thay bất ngờ, cuối năm tiết trời bỗng se lạnh sau hàng chục năm Nam bộ chưa biết mùa đông, một số sinh hoạt văn hóa của Sài Gòn đã “âm thầm” trở lại: nhà hàng, phòng trà có ca nhạc, ca sĩ hát những bài ca “giải phóng” nhưng thỉnh thoảng, bất ngờ một bài “nhạc cũ” vang lên: Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Trầm Từ Thiêng, Trường Sa… Tôi, cô gái Hà Nội khi ấy tuổi vừa đôi mươi, từ giai điệu lời ca da diết “để đêm đêm nhớ về Sài Gòn thấy mình vừa trở lại quê hương, đã gặp người một trời yêu thương…” biết mình đã thuộc về Sài Gòn như thể được sinh ra ở đây.
Không như Hà Nội hay Huế có cả một dòng nhạc để gọi tên hay nhớ về, những tình khúc sáng tác trước 1975 ở miền Nam hầu như ít bài có hai chữ Sài Gòn trên tựa hay trong lời ca, nhưng ai cũng có thể nhận ra hình ảnh Sài Gòn thấp thoáng trong ca từ và giai điệu… Cái chất sang cả mà gần gũi, cởi mở mà thâm trầm của Sài Gòn thấm vào trong từng nốt nhạc, để khi người ca sĩ cất lên tiếng hát thì dù quê đâu người nghe cũng thấy mình thuộc về Sài Gòn. Cho đến bây giờ, theo tôi có hai ca khúc lột tả được đúng nhất cái “chất Sài Gòn”, đó là “Sài Gòn đẹp lắm” của Y Vân và “Đêm nhớ về Sài Gòn” của Trầm Tử Thiêng. Nếu trong “Sài Gòn đẹp lắm” đây là một thành phố đông vui, trẻ trung, sôi động, rộn ràng của những người tứ xứ tụ về thì “Đêm nhớ về Sài Gòn” lại như lời tự sự của một đô thành từng trải qua bao biến động, có nỗi buồn chia ly và những thân phận ẩn trong đêm tối…
Sài Gòn không có ban đêm, một cuộc sống khác bắt đầu ở đây khi mặt trời đi ngủ, phổ biến nhất là sinh hoạt nghệ thuật ở phòng trà, quán cà phê, tụ điểm ca nhạc, sân khấu, rạp phim ở trung tâm đến quán nhậu ven kênh hay nơi hẻm nhỏ. Khi thành phố lên đèn ánh sáng rực rỡ thì cũng là lúc nhiều người bước vào cuộc mưu sinh, nghệ sĩ trên sân khấu hay ca sĩ “kẹo kéo” nơi vỉa hè đều mang lại cho đêm thành phố đầy ắp cung bậc cảm xúc. Và không đâu như trong dòng nhạc Sài Gòn xưa hình ảnh người ca sĩ mong manh sương khói khuất vào đêm khuya lại được nhiều nhạc sĩ đưa vào ca khúc của mình, như chia sẻ, trân trọng và có gì đó như xót thương…
Một Sài Gòn chưa xa
Sau một ngày hối hả vội vàng mưu sinh, đêm xuống bên những cuộc bia rượu ồn ào vẫn có giây phút cô đơn, lắng lòng nghe tiếng hát mà nhớ một Sài Gòn đâu đó, ngay ngoài khung cửa kia hay cách xa ngàn dặm, có thể chạm vào hay chỉ nhìn thấy trong tưởng tượng… Với rất nhiều người Sài Gòn không chỉ là quê hương, là người thương trong trái tim lỗi nhịp khi nhớ về, Sài Gòn còn là một phần của cuộc đời ngắn ngủi. Bởi vậy người đi xa nhớ về Sài Gòn đã đành mà người ở Sài Gòn cũng không ngừng nhớ nhung thành phố. Nhớ ánh đèn vàng, nhớ quán xưa, nhớ con đường hoa dầu bay bay, nhớ cơn mưa chợt đến chợt đi, nhớ Sài Gòn như nhớ mẹ, nhớ người tình, nhớ bạn tâm giao…
Tưởng chỉ có những người từng trải đã vào tuổi 60 mới có những hoài niệm về một Sài Gòn coi lạnh lùng mà nồng nàn, ngỡ hờ hững cách xa mà thân quen ấm áp. Đâu dè lại bắt gặp niềm thương nỗi nhớ như thế đầy ắp qua từng lời ca nốt nhạc bolero mà người Sài Gòn, có rất nhiều người trẻ, bây giờ vẫn thường hát.
Đêm nhớ về Sài Gòn để cùng thức và cùng hát, có những con người đã nuôi dưỡng sức sống của Sài Gòn bằng một tình yêu như thế!
Tùy bút, Nguyễn Thị Hậu
Đăng lại từ trang blog: haukhaoco2010.blogspot.com
Có bổ sung ảnh minh họa
TS. Nguyễn Thị Hậu là tác giả được yêu mến của nhiều cuốn sách về Sài Gòn như “Sài Gòn bao giờ cũng thế”, “Nghĩ ngợi đường xa”, “Cách nhau chỉ có một giấc mơ”, v.v.. Mời bạn đọc tham khảo thêm tại đây.
Facebook tác giả: Hậu Kc Nguyễn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét