Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

Những di tích kỳ bí

Làng chài được yểm bùa

Làng chài Hải Giang (xã Nhơn Hải, TP.Quy Nhơn, Bình Định) có nhiều dấu tích của người Chăm đến nay vẫn chưa được giải mã. Nhiều người cho rằng đó là những lá bùa để giữ đất, giữ làng.

Pho tượng cổ bí hiểm

Pho tượng cổ ở Hải Giang được người dân mặc áo vàng, thờ chung với các vị Phật, bồ tát - Ảnh: Hoàng Trọng 
Điểm đến hấp dẫn nhất ở Hải Giang là chùa Linh Sơn, nơi thờ pho tượng cổ bằng đá mà dân gian quen gọi là tượng Phật Lồi. Pho tượng có hình dáng một vị tu sĩ trong tư thế ngồi thiền, tay trái đặt lên đùi, tay phải cầm tràng hạt, mình trần, thân đeo một mảnh vải vắt chéo qua vai trái. Tượng cao 0,82 m, ngang 0,46 m. Đặc biệt, lưng tượng là một tấm bia hình ngũ giác (cao 60 cm, rộng 45 cm), có 12 dòng chữ Chăm cổ đến nay vẫn chưa ai đọc được.
Theo ông Trương Long (81 tuổi, ở Hải Giang), người được giao giữ chìa khóa trông coi chùa Linh Sơn, tượng Phật Lồi lộ ra từ lòng đất khi một người dân Hải Giang cày ruộng canh tác và cả làng cùng nhau lập đền để thờ. Sau nhiều lần di chuyển lên cao dần, vị trí đặt tượng ngày nay cách địa điểm phát hiện pho tượng khoảng 300 m. Chùa Linh Sơn được xây dựng từ đó, nay đã hơn 200 năm. Chùa ngày càng được mở rộng dần, người ta hiến tặng các tượng Phật, bồ tát để thờ chung với pho tượng cổ.
Ông Trương Long kể: Năm 1945, khi quân Nhật chuẩn bị rút về nước, viên sĩ quan chỉ huy quân Nhật tại Quy Nhơn dẫn một toán lính sang chùa Linh Sơn để khiêng pho tượng đi. Nhưng bọn chúng có cố đến đâu, huy động hết sức lực cũng không khiêng được pho tượng nên đành phải bỏ đi. “Do ông hiển linh, muốn ở lại với dân làng Hải Giang nên không ai có thể dời ông đi nơi khác được. Những đối tượng trong làng bị người dân nghi ngờ có tham gia vụ trộm tượng lần lượt nhận cái chết “bất đắc kỳ tử” rất thê thảm sau đó một thời gian”, ông Long kể lại câu chuyện nhuốm màu huyền thoại.

“Tượng Phật Lồi ở Hải Giang là tượng thần Shiva do người Chăm tạc, có niên đại khoảng thế kỷ 11 - 13. Viện Viễn Đông bác cổ ở Pháp sang cũng đã lấy mẫu chữ đằng sau pho tượng Phật Lồi về nghiên cứu nhưng vẫn chưa có kết quả.”
(Theo TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định)
Đến năm 1999, tại Hải Giang xuất hiện vài người lạ đến phối hợp cùng một số người trong làng săn tìm đồ cổ, đồ đồng đen... Một đêm, họ phá khóa gian thờ chính điện, định khiêng tượng Phật Lồi đem đi bán, nhưng mới khiêng tượng được vài mét bỗng dưng không tài nào di chuyển được nữa. Bọn trộm dùng búa đập đứt đầu tượng Phật Lồi thì phát hiện tượng làm bằng đá xanh chứ không phải đồng đen nên bỏ đi. Sáng hôm sau, thấy tượng nằm lăn lóc bên hông chùa nên người dân khiêng vào chánh điện, dùng xi măng gắn đầu tượng lại.
Ngôi làng của người Chăm cổ
Ở phía bắc làng Hải Giang, trên một khối đá nhô ra biển gần hang Bà Dăng có Hòn Đá Chữ giống hệt một tấm bia đá lớn. Hòn Đá Chữ được ngăn thành hai phần riêng biệt, một bên khắc 3 hàng chữ Chăm, bên còn lại khắc 4 hàng chữ Chăm. Những dòng chữ này đã bị đục xóa hoặc bị xi măng trám lên rất mờ, càng khó nhận diện. Có người cho rằng những dòng chữ trên vách núi chỉ dẫn đến kho báu trong hang Bà Dăng nên vào trong hang đào xới. Theo ông Trương Long, các đời trước truyền lại rằng những dòng chữ trên vách núi và trên lưng tượng Phật Lồi có mối quan hệ với nhau, đều là bùa yểm. Pho tượng được phát hiện phía nam của làng, còn các dòng chữ ở phía bắc làng nên có thể là người Chăm dùng nó để trấn yểm, bảo vệ làng Hải Giang.
Người dân Hải Giang cho rằng vùng đất mình đang sinh sống trước kia là khu vực lưu trú của người Chăm. Gần mép biển và trên ngọn núi xung quanh làng Hải Giang có dấu tích của một tường thành cổ được cho là của người Chăm xây dựng nên. Tại các khu vực như Gò Thịnh, Gò Luôn, Ụ Đầm Bé, Gò Giếng Hời... mỗi khi đào đất lên canh tác có rất nhiều gạch Chăm, bình hũ sành... Những khu vực này mùa mưa thì giữ nước dẫn đến sình lầy, mùa nắng thì khô cằn không thể canh tác được do lớp đất canh tác rất mỏng, phía bên dưới là lớp gạch của người Chăm cổ.
Chân núi dưới chùa Phật Lồi có 2 ngôi mộ cổ, khoảng hơn 100 tuổi, có bia bằng chữ Hán, do dân vạn chài từ nơi khác mang đến chôn. Khoảng hơn chục năm trở lại đây, hai ngôi mộ này không còn ai đến hương khói. “Hai ngôi mộ này đã chiếm mất long mạch của Hải Giang nên người dân trong làng làm ăn không phất lên được. Hiện 2 ngôi mộ này bị đục phá bởi ai đó muốn lấy lại long mạch cho làng Hải Giang hoặc cũng có thể là bọn ăn trộm đồ cổ gây ra”, ông Trương Long nói.

Tại khu vực Hố Giang (ở thôn Thành Sơn, xã Hoài Châu, H.Hoài Nhơn, Bình Định) có hòn đá Chữ, trên đá có khắc 15 hàng chữ của người Chăm cổ đến nay vẫn chưa được các nhà khoa học giải mã. Trong khu vực này, có nhiều di tích như giếng nước cổ, những đoạn tường thành cổ... Nhiều người trong vùng đồn đoán khu vực này có kho báu của nước Chămpa nên đào xới để tìm vàng. Một số nhà sử học có nghi vấn rằng khu vực Hố Giang là nơi vua Indravarman 5 (Vương triều Chămpa) đóng quân bí mật sau khi cho đốt kho lương, bỏ trống kinh thành Đồ Bàn để chống quân xâm lược nhà Nguyên (Trung Quốc) vào cuối thế kỷ 13.
Hoàng Trọng

Chuyện ông Đỏ, ông Đen

Chùa Nhạn Sơn (thôn Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, TX.An Nhơn, Bình Định) có 2 pho tượng đá cổ, cao khoảng 2,8 m, được người dân địa phương cho rằng rất linh thiêng.

Hai pho tượng ông Đỏ, ông Đen trong chùa Nhạn Sơn - d
Hai pho tượng ông Đỏ, ông Đen trong chùa Nhạn Sơn - Ảnh: Hoàng Trọng 
Truyền thuyết Song nghĩa tự
Theo hòa thượng Thích Thị Hoàng, trụ trì chùa Nhạn Sơn, hai pho tượng cổ này có từ thời người Chiêm Thành (người Chăm) còn đóng đô ở thành Đồ Bàn (thuộc xã Nhơn Hậu). Do chiến tranh, hai pho tượng đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng trăm năm. Sau đó, mưa nắng xói mòn nên hai búi tóc của các pho tượng lộ dần lên khỏi mặt đất. Trẻ con chăn bò thấy lạ đào bới, phát hiện tai, mũi, mắt, miệng, rồi dân làng đào lên được 2 pho tượng liền lập chùa để thờ lấy tên là Thạch tự công, nghĩa là chùa thờ ông Đá. Thời gian sau, người dân biết câu chuyện lý giải về 2 pho tượng đá này nên đổi tên chùa thành Song nghĩa tự, tức là chùa thờ hai anh em kết nghĩa.
Đến thế kỷ 16, vùng An Nhơn bị hạn hán kéo dài, Tuần phủ địa phương cho dân lập đàn tràng cầu mưa. Hòa thượng Chí Mẫn được người dân giới thiệu đứng ra chủ trì việc lập đàn cầu mưa và kết quả đã có mưa giải hạn. Hòa thượng Chí Mẫn được quan Tuần phủ mời ở lại lập chùa và ông đã chọn Song nghĩa tự. Tên chùa được hòa thượng Chí Mẫn đổi thành Nhạn Sơn Linh Tự vẫn còn đến ngày nay, nhưng người dân địa phương thường gọi là chùa Ông Đỏ Ông Đen.
Hòa thượng Thích Thị Hoàng kể: Hai anh em kết nghĩa là ông Đỏ, ông Đen trong câu chuyện được dân gian và nhà chùa lưu truyền có tên là Huỳnh Tấn Công và Lý Xuân Điền, sống vào đời nhà Trần ở nước Việt. Huỳnh Tấn Công (pho tượng có màu sơn đỏ) là con một nhà nho nghèo ở Quảng Nam. Trên đường ra Thăng Long thi, khi đi ngang qua tỉnh Quảng Bình thì bị bệnh, ngất xỉu giữa đường. Một vị điền chủ giàu nổi tiếng ở Quảng Bình đi thăm ruộng vào sáng sớm phát hiện và đưa Huỳnh Tấn Công về nhà chữa trị. Con của vị điền chủ tên là Lý Xuân Điền (pho tượng sơn màu đen) cũng ra Thăng Long thi nên hai người cùng lên đường.
Trên đường đi, hai người thấy tâm ý hợp nhau nên kết nghĩa làm anh em. Cả hai đều thi đỗ và được làm quan to. “Huỳnh Tấn Công làm quan văn nên tay cầm cây giản (là một cây lịnh), có nghĩa là ra vào trong triều không ai gạn hỏi. Ông Lý Xuân Điền cầm cây kiếm lệnh tức là làm quan võ, được quyền tiền trảm hậu tấu. Điều này chứng tỏ hai ông đều làm quan rất có uy tín trong triều, được nhà vua tin cẩn”, hòa thượng Thích Thị Hoàng phân tích. 
Hai ông có thân quen với vua nước Chiêm Thành nên vào thăm. Gặp lúc vua Chiêm Thành bị bệnh, các danh y trong nước không chữa được nên ông Huỳnh Tấn Công và Lý Xuân Điền dùng thuốc nam chữa khỏi. Lại gặp lúc Xiêm La (Thái Lan ngày nay) đem quân xâm lấn biên giới nước Chiêm Thành, hai ông xin cầm quân đánh giặc. Dù đánh đuổi được giặc nhưng tướng Lý Xuân Điền lại bị Xiêm La bắt. Sau đó, Hoàng tử Xiêm La cầu hôn em gái ông Huỳnh Tấn Công nên ông yêu cầu dùng Lý Xuân Điền làm lễ vật cầu hôn. Hai người gặp lại nhau và cùng trở về nước Việt. Vua Chiêm Thành thương nhớ, biết ơn hai ông nên tạc hai pho tượng để thờ.
Việt hóa tượng Chăm
Câu chuyện về hai pho tượng trong chùa Nhạn Sơn này được cụ Bùi Văn Lang ghi chép trong sách Địa dư mông học tỉnh Bình Định (xuất bản năm 1933 và tái bản năm 1935). Tuy có vài khác biệt về địa danh và một số tình tiết trong câu chuyện nhưng các dị bản này cũng nhằm mục đích lý giải về nguồn gốc hai pho tượng cổ ở chùa Nhạn Sơn.
Chuyện hai pho tượng ở chùa Nhạn Sơn bị Việt hóa, Phật giáo hóa cũng là đặc điểm chung của rất nhiều tượng Chăm cổ còn sót lại ở Việt Nam. Cũng như tượng vị tu sĩ ở làng Hải Giang (được đề cập ở bài trước) bị người dân “biến” thành tượng bồ tát, hai pho tượng chùa Nhạn Sơn được người dân và nhà chùa mặc áo màu vàng và thờ cúng cùng với các vị Phật, bồ tát.
Trong tín ngưỡng của người dân địa phương, hai pho tượng này rất linh nên họ thường đến cúng bái, cầu tài lộc, bình an, học hành đỗ đạt… Những gia đình có con khó nuôi, bị bệnh tật hay thường khóc đêm đều đem đến chùa Nhạn Sơn “gửi bán Phật và hai ngài”. “Năm 1977, đoàn khảo sát từ Hà Nội vào, sau khi nghiên cứu hoa văn ở thắt lưng tượng và nhiều sử liệu khác đã xác định hai pho tượng này có từ thế kỷ 13, thời nước Chiêm Thành còn đóng đô ở thành Đồ Bàn”, hòa thượng Thích Thị Hoàng nói.
Hoàng Trọng

Chuyện liêu trai trong ngôi chùa cổ

Chùa Thập Tháp (ở P.Nhơn Thành, TX.An Nhơn, Bình Định) có nhiều câu chuyện truyền miệng hoang đường, nghe đến không ít người phải rùng mình.


 Những di tích kỳ bí - Kỳ 3: Chuyện liêu trai trong ngôi chùa cổ 1
Cổng chùa Thập Tháp
Quần thể di tích Phật giáo
Nhà nghiên cứu Lộc Xuyên Đặng Quý Địch khẳng định chùa Thập Tháp (tên đầy đủ là Thập Tháp Di Đà Tự) do thiền sư Nguyên Thiều (1648 - 1728) kiến tạo rồi làm lễ khai sơn vào năm 1683.
Thiền sư họ Tạ, tự Hoán Bích (người Trung Quốc), theo thuyền buôn đến phủ Quy Ninh (nay thuộc tỉnh Bình Định) năm 30 tuổi. Sau chùa Thập Tháp, thiền sư Nguyên Thiều ra đất Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân, tháp Phổ Đồng rồi mất tại đó. Tên chùa Thập Tháp là do nguyên trước đây trên khu đồi xây dựng chùa có 10 ngôi tháp Chăm đã sụp đổ. Ban đầu, chùa Thập Tháp được xây dựng từ gạch của 10 ngôi tháp cổ này.
Chùa Thập Tháp là di tích kiến trúc nghệ thuật thế kỷ 19 đã được công nhận di tích cấp quốc gia từ năm 1990. Hiện chùa còn lưu giữ quần thể kiến trúc rất độc đáo, như ngôi chánh điện do thiền sư Thiệt Kiến Liễu Triệt cho trùng kiến vào năm 1749, nhà phương trượng do Quốc sư Phước Huệ xây vào năm 1924... Thời hòa thượng Minh Lý trụ trì chùa Thập Tháp (1871 - 1889) cũng đã tạo lập rất nhiều tượng Phật đến nay vẫn còn.
Trong khuôn viên chùa có khoảng hơn 20 tháp mộ của các đời trụ trì với kiến trúc rất độc đáo. Năm 1876, trong lúc tổ chức khai khẩn vùng đất hoang sau chùa, gặp rất nhiều hài cốt của lính Tây Sơn và nhà Nguyễn chết trong trận chiến ở thành Hoàng Đế, hòa thượng Minh Lý cho gom lại, xây một tháp để thờ cúng, ngày nay gọi là tháp Hội đồng.
Trụ trì dính nghi án oan tình
 Những di tích kỳ bí - Kỳ 3: Chuyện liêu trai trong ngôi chùa cổ 2
Hòn Đá Chém - Ảnh: Hoàng Trọng
Đến nay, các hòa thượng và người dân trong vùng vẫn còn lưu truyền câu chuyện về ông Bạch Hổ đi tu tại chùa Thập Tháp. Sau khi sư phụ là hòa thượng Minh Giác mất, hòa thượng Thiệt Kiến Liễu Triệt đang làm trụ trì chùa Thiên Mụ (ở Huế) được gọi về làm trụ trì chùa Thập Tháp.

Không những là quần thể kiến trúc độc đáo, chùa Thập Tháp còn lưu giữ nhiều bộ kinh kệ rất quý, như: 2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh Di Đà sớ sao, Kim Cang trực sớ, Pháp Hoa khóa chú... và bộ Đại Tạng Kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường, bộ Đại Tạng Kinh Cao Ly và bộ Đại Tạng Kinh Đài Loan.
Một thời gian sau, trong đêm mưa gió, có hai mẹ con nằm trước cổng chùa Thập Tháp. Người mẹ bị câm nên không ai hỏi được gì. Hòa thượng Liễu Triệt cho xây một cái am gần chùa cho hai mẹ con nương náu. Từ đó, người dân trong vùng đồn đoán rằng trong thời gian làm trụ trì chùa Thiên Mụ, hòa thượng Liễu Triệt thường được chúa Nguyễn Phúc Khoát mời vào cung và đã có tơ tình với một phi tần. Kết quả mối tơ tình này chính là đứa con, còn phi tần kia là người mẹ bị câm. Hòa thượng Liễu Triệt không một lời giải thích.
Cũng trong thời gian này, đêm nào chùa Thập Tháp cũng có một con Bạch Hổ đến ngồi trước chánh điện nghe kinh khiến ai cũng sợ hãi. Hòa thượng Liễu Triệt bảo mọi người đừng sợ vì con cọp này không hại ai rồi ra ngoài nói với con cọp: “Hỡi Bạch Hổ! Vì nghiệp nặng phải làm thân súc sinh, hãy cố gắng nghe kinh tu hành có ngày sẽ được thoát kiếp”.
Thời gian sau, chúa Nguyễn triệu hòa thượng Liễu Triệt ra Huế để giảng dạy Phật pháp. Đêm trước khi đi, hòa thượng nằm mơ thấy một ông lão đến nói: “Xin thầy ở lại vài hôm để làm lễ cho con, tuổi thọ của con còn ngắn, con ở sau chùa”. Vài hôm sau, không thấy Bạch Hổ đến nghe kinh, hòa thượng biết cọp đã thoát kiếp nên sai đệ tử đi tìm và phát hiện được xác cọp sau vườn chùa. Hòa thượng cho mai táng con cọp tại chỗ, xây tháp và làm lễ đúng 49 ngày. Ban đầu, tháp Bạch Hổ được xây dựng bằng gạch Chăm nhưng đã bị sụp đổ, hiện đã được xây dựng lại, còn bộ xương thì bị kẻ gian lấy mất trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Trước khi viên tịch, hòa thượng Liễu Triệt tập trung đệ tử lại dạy dỗ lần cuối và đưa ra lời bảo chứng: “Người đời nói oan cho ta dính án tình với cung phi. Ta một đời tu hành thanh tịnh, sau khi xả bỏ báo thân này, tháp của ta cũng sẽ luôn luôn tinh bạch”. Quả nhiên, cho đến ngày nay, tháp của hòa thượng Liễu Triệt vẫn còn trắng và mọi người quen gọi đó là Tháp Trắng.
Hòn đá chém oán hờn
Tương truyền rằng, sau khi chúa Nguyễn Ánh chiếm được thành Hoàng Đế, liền chiêu dụ những người trong hoàng tộc nhà Tây Sơn ra đầu thú với lời hứa hẹn sẽ không trả thù. Nhiều người ra trình diện thì Nguyễn Ánh nuốt lời, mang ra chém sạch. Tảng đá dùng để kê đầu tôn thất nhà Tây Sơn lên chém được đặt ngay cổng thành Hoàng Đế. Từ đó, hằng đêm trong tảng đá vẳng ra tiếng than khóc ai oán, đòi mạng thống thiết, người dân và quan quân nhà Nguyễn không ai dám đi ngang qua cổng thành.
Để cứu chúng sinh, một vị trụ trì chùa Thập Tháp xin được lập đàn cầu siêu để giải nỗi oan khuất. Sau 3 ngày đêm kinh kệ, nhà sư cho người mang hòn đá kia về chùa Thập Tháp. Hòn đá được đặt cạnh cây thị cổ thụ 300 năm tuổi nằm phía nam tường thành của nhà chùa và được đặt tên là Hòn Đá Chém. Nhưng nỗi oan khiên trong Hòn Đá Chém vẫn còn vất vưởng. Vào những đêm mưa gió, người ta thường thấy một phụ nữ mặc áo cụt trắng, quần đen bước ra từ Hòn Đá Chém. Khi chó trong chùa sủa là bóng người phụ nữ kia biến mất.
Đến thời hòa thượng Phước Huệ làm trụ trì, Hòn Đá Chém được chuyển vào để ngay bậc tam cấp trước khu Phương Trượng, sau lưng Chánh điện của chùa để thường xuyên được nghe kinh kệ, giải tỏa những oan khiên. Theo nhà sư Mật Hạnh, đệ tử của nhà sư Phước Huệ, cách đây vài chục năm, những đêm nhà chùa tổ chức cúng hành binh, hành khiến hằng năm vào lúc giao thừa trước Tết Nguyên đán, đến khi đổ 3 hồi trống chiêng là tự nhiên có một dải lụa trắng, tỏa ra ánh hào quang sáng rực xuất hiện bay lượn ngang chánh điện một lần rồi mất.
Ngày nay, Hòn Đá Chém vẫn còn đặt tại cửa khu phương trượng của chùa Thập Tháp (cao khoảng 40 cm, dài 1,5 m, rộng 1,3 m) nhưng chuyện ma quái không còn xuất hiện. Hằng năm, đến ngày giỗ hòa thượng Phước Huệ (18 tháng giêng âm lịch), hàng ngàn phật tử đến dự, nhìn Hòn Đá Chém, không ít người rơi nước mắt nhớ đến những anh hùng, hào kiệt thời Tây Sơn.
Hoàng Trọng

Tường thành cổ dưới biển

Đầm Thị Nại (tỉnh Bình Định) là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt, quyết định số phận của các vương triều như: Chămpa, Tây Sơn, triều Nguyễn...



Bờ thành ở vùng biển Nhơn Hải được nhìn thấy khi thủy triều xuống - Ảnh: Ngọc Nhuận
Vùng biển gần bờ xã Nhơn Hải (TP.Quy Nhơn) tồn tại một bờ thành chìm trong lòng biển, chỉ nhìn thấy khi thủy triều xuống. Bờ thành này nối liền vách đá thôn Hải Nam ra đến đảo Hòn Khô của thôn Hải Đông. Bề mặt thành phẳng, rộng hơn 10 m, độ cao của thành chưa xác định được. Những ngư dân làm nghề thợ lặn khẳng định bờ thành này không xây bằng đá hoặc gạch mà bằng hồ vữa đặc nguyên khối.
Thôn Hải Giang (cách bờ thành nói trên hơn 5 km) cũng có bờ thành chìm dưới lòng biển, thủy triều xuống sẽ nhìn thấy đoạn dài hơn 3 km ở gần bờ, người dân địa phương gọi là Rạng Cầu. Hai đoạn bờ thành này có kết cấu giống nhau, nên nhiều người cho rằng đó là một tường thành kéo dài. Tuy nhiên, không ai tính chính xác tường thành này dài đến đâu và được xây dựng từ thời nào.
Vùng núi thôn Hải Giang lại có một lũy đá kéo dài, bao quanh đỉnh núi Tam Tòa (thuộc hệ thống núi Phương Mai) của khu vực Hải Minh (P.Hải Cảng, TP.Quy Nhơn). Lũy được xây dựng bằng cách xếp chồng những viên đá núi có nhiều kích cỡ khác nhau. Ở những nơi còn nguyên vẹn, chiều cao của lũy đá khoảng từ 1 - 1,5 m, đáy rộng 2 m, bề mặt rộng 1,2 m.
 Theo TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định, bờ thành Nhơn Hải và lũy đá trên núi Tam Tòa là những công trình phòng thủ khác nhau. Theo thư tịch cổ để lại thì người Chămpa xây dựng 4 thành lớn tại Bình Định gồm: Thị Nại (H.Tuy Phước), Đồ Bàn (TX.An Nhơn), Chas (TX.An Nhơn), Uất Trì (H.Tây Sơn) và một số thành nhỏ khác. Nhưng đến nay vẫn chưa phát hiện có tư liệu nào nhắc đến bờ thành được xây dựng ở vùng biển Nhơn Hải. “Bờ thành ở Nhơn Hải là một di tích rất lạ, tường thành nằm dưới nước hàng trăm năm qua vẫn còn nguyên vẹn chứng tỏ kỹ thuật xây dựng của người Chămpa rất độc đáo”, TS Hòa nói.
Theo TS Đinh Bá Hòa, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ có ghi chép vào tháng 8 năm Canh Tý (1840), vua Minh Mạng cho xây dựng pháo đài Hổ Ky ở cửa biển Thị Nại, chính quyền địa phương đã huy động trên 500 dân phu tham gia xây dựng. Sau lưng pháo đài Hổ Ky, trên đỉnh núi Phương Mai là một hệ thống thành lũy yểm trợ, được xây dựng tại 2 nơi riêng biệt là gò Vũng Tàu và gò Kinh Để. Phòng tuyến gò Kinh Để có nhiệm vụ ngăn không cho quân địch tiến từ sườn phía đông để tấn công pháo đài Hổ Ky vào phía bên trong cửa Thị Nại. Còn phòng tuyến gò Vũng Tàu để ngăn quân bộ tấn công mặt tây của pháo đài Hổ Ky và chiếm cửa biển Thị Nại.
“Thị Nại có âm gốc tiếng Chămpa gọi đầy đủ là Thi Lị Bi Nại, tên phiên âm chữ Cri-Banoi là tên hải cảng của Vương quốc Chămpa. Thời Chămpa và thời Tây Sơn, Thị Nại có vai trò rất quan trọng, vừa là quân cảng và vừa là thương cảng rất sầm uất”.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn(TP.Quy Nhơn, Bình Định)
Những trận thủy chiến nổi tiếng
Đầm Thị Nại là cửa ngõ ra vào Bình Định bằng đường thủy nên triều đại nào cũng xây dựng hệ thống phòng thủ để trấn giữ. Thời Chămpa có xây thành Thị Nại, tháp Bình Lâm. Thời Tây Sơn, thủy quân cũng đóng bản doanh tại đầm Thị Nại và núi Tam Tòa. Thành Thị Nại đóng vai trò là tiền đồn bảo vệ cho kinh đô Đồ Bàn của Chămpa nên các cuộc tấn công bằng đường thủy thường nhắm vào thành này.
Trận thủy chiến đầu tiên tại thành Thị Nại được sử sách ghi lại là trận chiến chống quân Nguyên - Mông do Toa Đô chỉ huy xâm lược Chămpa vào cuối năm 1282. Thủy binh do Toa Đô chỉ huy tiến đánh thành Thị Nại quá mạnh, quân Chămpa phải rút lui.
Khoảng thời gian từ năm 1792 - 1801, thủy quân của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đã có 5 lần giao chiến tại đầm Thị Nại. Các trận năm 1792, 1793, thủy quân Nguyễn Ánh tấn công Thị Nại nhưng đều phải lui binh. Lần thứ 3, năm 1799, đại quân Nguyễn Ánh vượt qua được cửa Thị Nại, đánh chiếm luôn thành Hoàng Đế (cũng là nơi xây dựng thành Đồ Bàn cũ). Năm sau, quân Tây Sơn từ kinh thành Phú Xuân (Huế) do Trần Quang Diệu chỉ huy vào đánh lấy lại được Thị Nại rồi giao cho Võ Văn Dũng trấn thủ, sau đó kéo quân vây đánh thành Hoàng Đế. 
Năm 1801, Nguyễn Ánh cho đại binh ra đánh Thị Nại nhằm giải vây cho thành Hoàng Đế. Đây là trận đại chiến lớn nhất từ trước đến nay tại đầm Thị Nại. Trong sách Nhân vật Bình Định, tác giả Đặng Quý Địch dẫn lại tư liệu của ông Barizy (một người ngoại quốc có mặt trong đoàn quân của Nguyễn Ánh tấn công Thị Nại) khẳng định quân Tây Sơn tại cửa Thị Nại gồm có 557 tàu chiến lớn nhỏ, 1.827 đại bác các cỡ và 53.250 thủy quân. Thủy quân của nhà Nguyễn có 91 thuyền chiến, 91 đại bác, 10.400 lính và lực lượng rất đông quân bộ ở Phú Yên tấn công ra.
Theo ông Barizy, quân hai bên đánh nhau rất dữ dội vào đêm rằm tháng giêng năm Tân Dậu (1801). Quân Nguyễn tập kích rất bất ngờ, đốt rất nhiều thuyền chiến của quân Tây Sơn. Các thuyền chiến và pháo hạm hai bên cầm cự đến chiều ngày 16 tháng giêng thì quân Tây Sơn bị vỡ trận, Võ Văn Dũng dẫn thủy quân rút lui. Trận này, 4.000 quân của Nguyễn Ánh bị tử thương, thuyền quân Tây Sơn bị đốt gần hết. “Lũy đá cổ trên núi Tam Tòa đã được nhắc đến trong sử sách triều Nguyễn nhưng có thể đã có từ các triều đại trước và nhà Nguyễn cho xây dựng lại. Cuối thế kỷ 18, quân Tây Sơn đã thiết lập đồn, đặt đại bác ở núi Tam Tòa, khống chế cửa biển Thị Nại. Ngày nay, người dân và các cơ quan chức năng đã trục vớt 14 khẩu súng thần công tại đầm Thị Nại là những chứng tích còn lại của trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn. Chắc chắn trong khu vực đầm Thị Nại còn rất nhiều dấu tích liên quan đến những trận chiến này nên cần phải được nghiên cứu thêm”, TS Đinh Bá Hòa nói.
Hoàng Trọng

Khu lăng mộ bí ẩn

Khu di tích Gò Lăng (ở thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, H.Tây Sơn, Bình Định) được các nhà nghiên cứu và người dân địa phương nghi ngờ là khu lăng mộ của nhà Tây Sơn.


 Ông Mai Văn Châu bên lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn đang bị hoang phế
Ông Mai Văn Châu bên lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn đang bị hoang phế
Lăng mộ 'ông nội vua nước Việt'
Đầu năm 2013, trong lần trở lại viếng lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn (ở thôn Phú Lạc) - ông nội của 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn (90 tuổi, ở TP.Quy Nhơn, Bình Định) đã bật khóc khi chứng kiến cảnh hoang phế. Theo cụ Liễn, dù đã được phát hiện hơn 20 năm qua, nhưng ngành văn hóa tỉnh Bình Định ngoài việc công nhận là di tích cấp tỉnh vào cuối năm 2012 vẫn chưa có động thái nào đáng kể trong việc trùng tu, bảo vệ ngôi mộ cổ này.
Tháng 4.1990, trong quá trình đào đất đắp đường, người dân địa phương phát hiện được một tấm bia mộ làm bằng đá (cao 125 cm, rộng 68,5 cm, dày 13 cm) nằm sâu dưới đất ruộng ở làng Phú Lạc. Trên tấm bia có 3 dòng chữ Hán, được nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn đọc và dịch nghĩa. Dòng chính giữa có 15 chữ lớn đọc là “Việt Cố Hoàng Hiển Tổ Khảo Cang Nghị Mưu Lược Minh Triết Công Chi Lăng”, nghĩa là: Lăng mộ ông nội đã qua đời của nhà vua nước Việt, ông là một vị minh triết, mưu lược, cương nghị. Dòng chữ nhỏ bên phải đọc là “Tuế thứ Kỷ Hợi Trọng Xuân Cốc Nhật”, nghĩa là: Ngày lành tháng hai năm Kỷ Hợi. Dòng chữ nhỏ phía trái là “Ngự Chế”, nghĩa là: Nhà vua lập bia.
Tấm bia này được xác định là của ngôi mộ cổ cách đó khoảng 15 m. Ngôi mộ cổ nằm trên một gò cao khá rộng, chung quanh là ruộng lúa, chính giữa chân mộ còn dấu vết chỗ cắm bia đã bị gỡ từ trước. Mộ có 2 vòng thành trong, vòng ngoài, giữa hai vòng cách nhau 60 cm, cách mộ chừng 4 - 5 m còn dấu vết một vòng thứ ba. Ngôi mộ cổ này nằm cách di tích Gò Lăng, nơi có nền và vườn nhà của ông bà Hồ Phi Tiễn và bà Nguyễn Thị Đồng (được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988) khoảng 500 m.
 Tấm bia trên lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn - d
Tấm bia trên lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn - Ảnh: Hoàng Trọng
Qua nghiên cứu tấm bia và nhiều tư liệu lịch sử khác, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn xác định ngôi mộ cổ là lăng mộ của ông Hồ Phi Tiễn. Lăng mộ này do vua Thái Đức Nguyễn Nhạc xây dựng vào năm 1779 (năm Kỷ Hợi), sau khi lên ngôi hoàng đế chừng mấy tháng. Tổ tiên của Nguyễn Nhạc là ông Hồ Phi Long, từ xứ Nghệ vào Bằng Châu (Bình Định) phối hôn với bà họ Đinh (người Bằng Châu) sinh ra ông Hồ Phi Tiễn. Ông Tiễn lên Phú Lạc buôn trầu, hôn phối với bà Nguyễn Thị Đồng (con một gia đình giàu có ở Phú Lạc) rồi cất nhà ở luôn bên vợ.
Ông Tiễn và bà Đồng sinh được một con trai là Hồ Phi Phúc, về sau đổi họ thành Nguyễn Phi Phúc. Ông Nguyễn Phi Phúc hôn phối với bà Mai Thị Hạnh (tức bà tổ cô của Mai Xuân Thưởng), sinh hạ được ba con trai là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. “Lý do đổi họ Hồ thành họ Nguyễn không phải vì nguyên nhân chính trị như lâu nay người ta nói mà chính vì lý do kinh tế. Bà Nguyễn Thị Đồng là con gái độc nhất của gia đình, để đủ tư cách kế thừa hợp pháp món gia tài của cha mẹ bà để lại nên bà Đồng bàn với ông Hồ Phi Tiễn đổi họ con từ Hồ thành Nguyễn, nghĩa là theo họ mẹ. Nhiều ý kiến nói bà Đồng là mẹ của 3 anh em nhà Tây Sơn là không chính xác, phải là bà nội mới đúng”, cụ Vũ Ngọc Liễn khẳng định.
Còn nhiều lăng mộ chưa phát hiện ?
Di tích lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn và di tích Gò Lăng hiện do ông Mai Văn Châu (62 tuổi, ở thôn Phú Lạc) trông coi. Ông Châu là con cháu dòng họ của bà Mai Thị Hạnh. Theo ông Châu, gia đình họ Mai dời đến ở tại khu vực Gò Lăng đã hơn 4 đời. Khi mới đến, khu vực Gò Lăng vốn bỏ hoang, cây cối rậm rạp, trong quá trình phát dọn thì họ Mai phát hiện được ngôi mộ cổ mà sau này được xác định là của ông Hồ Phi Tiễn. Người họ Mai tự nguyện trông coi và chọn ngày mồng một tết cúng cơm ngôi mộ, tục lệ này tồn tại cho đến ngày nay. “Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã nghe các cơ quan chức năng có kế hoạch trùng tu ngôi mộ của ông (cụ Hồ Phi Tiễn - PV) nhưng đâu thấy động tĩnh gì. May mà người dân chúng tôi rất có ý thức bảo vệ mộ ông chứ không thì nó sẽ bị xâm hại, xuống cấp hơn nữa”, ông Châu nói.
Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, ngôi mộ ông Hồ Phi Tiễn là ngôi mộ duy nhất của dòng họ nhà Tây Sơn còn tồn tại cho đến ngày nay. Ngôi mộ này đã tránh được những đòn trả thù tàn bạo của vua Gia Long Nguyễn Ánh là nhờ người thời đó có công chôn giấu bia mộ một cách chu đáo. Hiện tấm bia này đã được mang về Bảo tàng Quang Trung để lưu giữ, trưng bày. “Xung quanh khu vực Gò Lăng có thể còn nhiều ngôi mộ cổ khác liên quan đến dòng họ nhà Tây Sơn nhưng đang bị vùi lấp dưới đồng ruộng cũng nên. Dân gian lưu truyền địa danh Gò Lăng mà chỉ có một lăng mộ và một cái miếu cổ nhỏ bé gọi là miếu Gò Lăng thì cũng hơi vô lý. Lăng mộ của cụ Hồ Phi Tiễn ở đây còn lăng mộ của bà Nguyễn Thị Đồng ở đâu? Khu di tích Gò Lăng phải được tiếp tục đầu tư nghiên cứu”, cụ Vũ Ngọc Liễn nói.

Tại gò Thỏ (ở thôn Vĩnh Long, xã Cát Hanh, H.Phù Cát, Bình Định), có ngôi mộ “Bà Vua” được xác định là mộ bà Nguyễn Thị Bích, thứ phi vua Quang Trung. Trước kia, mộ "Bà Vua" chỉ là một nắm đất nhỏ, không bia, không rõ danh tính, nhưng họ Nguyễn ở xã Cát Hanh vẫn tổ chức cúng giỗ hằng năm. Năm 1997, sau khi tra cứu gia phả, các nhà sử học khẳng định bà Nguyễn Thị Bích là vợ vua Quang Trung. Theo sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế - 2003) của TS Đỗ Bang, bà Bích, quê ở Mỹ Chánh (xã Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị), mất ngày 10 tháng 9, mộ táng tại gò Thỏ, thôn Vĩnh Ân (nay là thôn Vĩnh Long). Sau khi nhà Tây Sơn mất, bà Bích đến nương náu nhà người anh tên Nguyễn Văn Tuấn. Ông Tuấn làm quan thơ lại ở cửa biển Đề Gi và sống ở quê vợ tại thôn Vĩnh Ân.
Hoàng Trọng

Ông Núi linh thiêng

Dân gian lưu truyền rằng người sáng lập ra chùa Linh Phong tại núi Bà (ở thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, H.Phù Cát, Bình Định) là ông Núi, một tu sĩ rất bí ẩn.


 Những di tích kỳ bí - Kỳ 6: Ông Núi linh thiêng
Tháp mộ ông Núi - Ảnh: Hoàng Trọng
Bậc chân tu
Người dân Bình Định quen gọi chùa Linh Phong là chùa Ông Núi. Những dấu tích về ông Núi ngày nay chỉ còn lại ngôi mộ tháp và hang Tổ ở sau chùa Linh Phong. Hang Tổ nằm sát mép suối, đá tự nhiên che kín cả 3 mặt như một ngôi nhà. Tương truyền rằng đây chính là hang đá mà ngày xưa ông Núi từng ở, từng ngồi niệm kinh tụng Phật. Phật tử đã tạo dựng tượng ông Núi và các vị Phật để thờ tại chùa. Theo ông Võ Hợi (67 tuổi, ở thôn Phương Phi), người được giao việc trông coi hang Tổ, ông Núi rất hiển linh nên ngày nào cũng có người đến dâng hương, cầu xin sức khỏe, tài lộc, học hành... Hằng năm, vào ngày 25 và 26 tháng giêng âm lịch, chùa Linh Phong có lễ hội lớn, hàng ngàn du khách đến hang Tổ để cầu khấn.
“Ông bà chúng tôi kể lại rằng, khi còn sống, hằng ngày ông Núi vào rừng đốn củi, bó thành bó lớn rồi vác xuống núi đặt bên đường. Người qua đường biết đó là củi của ông Núi nên đem rau gạo đến đổi. Ông Núi xuống lấy gạo, rau quả rồi đi mà chưa từng đối đáp với ai về việc đổi chác ít hay nhiều. Mỗi ngày ông ăn đúng 2 lon gạo, nếu đổi được nhiều thì ông đem cho người khác chứ không giữ lại. Ông Núi còn hái thuốc và chữa bệnh cho nhiều người dân trong vùng”, ông Võ Hợi kể.

Đại hồng chung chùa Linh Phong (hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng H.Phù Cát) có khắc tên một danh tướng của chúa Nguyễn là Tống Phước Hiệp (và tên con trai, con gái), cùng phụ tá của ông là Nguyễn Khoa Thuyên (và tên vợ con). Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, năm 1774, quân Tây Sơn đánh Bình Thuận, Tống Phước Hiệp cùng Nguyễn Khoa Thuyên nhận được lệnh phát hịch gọi binh đi đánh Tây Sơn. Trong chiến dịch này, Tống Phước Hiệp bắt gặp đại hồng chung chùa Thiên Phước (ở Vĩnh Long ngày nay) nên cùng với Nguyễn Khoa Thuyên cho thợ khắc chữ lên chuông rồi tiến cúng cho một vị sư. Đến nay vẫn chưa rõ Tống Phước Hiệp tiến cúng đại hồng chung cho vị sư nào và tại sao đại hồng chung này lại có tại chùa Linh Phong.
Những câu chuyện về ông Núi và chùa Linh Phong cũng được ghi chép trong các tư liệu như: Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, bài Linh Phong tự ký của Đào Tấn (1845 - 1907), Mộc Y tử thuyết của Nguyễn Thượng Hiền (1868 - 1925)... Theo bài Linh Phong tự ký, năm 1702 tại vùng núi thôn Phương Phi có người tu hành là Mộc Y Sơn Ông (người dân gọi là ông Núi) kết vỏ cây làm áo, mùa đông hay mùa hạ vẫn mặc như thế, ung dung sống bên sườn núi, trong hang đá. Nhà tu hành này có tên Lê Ban, người Trung Quốc. Nhà sư Lê Ban ở vùng núi thôn Phương Phi được vài năm thì xây dựng một am nhỏ tên Dũng Tuyền tự để tu hành.
Đến năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú khen Sơn Ông là bậc chân tu, sai trùng tu Dũng Tuyền tự và đặt tên chùa là Linh Phong, ban cho ông pháp hiệu Tịnh Giác Thiện Trì đại lão thiền sư. Năm 1741, chúa Nguyễn Phúc Khoát triệu Sơn Ông vào kinh để hỏi về giáo lý đạo Phật. Ông ở kinh gần một tháng thì về và được chúa ban một bộ áo cà sa có vòng ngọc móc vàng làm pháp phục. Ông mất năm 1785 dưới thời Tây Sơn.
Quốc sử quán triều Nguyễn cũng có ghi chép những lần triều đình cấp kinh phí trùng tu chùa Linh Phong vào thời vua Gia Long, Minh Mạng, Thành Thái. Vào thời Minh Mạng, một hôm nhà vua bị bệnh, vừa chợp mắt thì mộng thấy một vị sư già mặc áo vỏ cây đứng bên giường hầu quạt, đến sáng thì khỏi bệnh. Khi ngự triều, nhà vua đem giấc mộng hỏi các quan, có người tâu rằng vị sư già đó là Mộc Y Sơn Ông ở chùa Linh Phong. Vua Minh Mạng ban cho chùa này một chiếc áo cà sa mới để thờ, đồng thời cấp 120 lượng bạc để trùng tu lại chùa. Đó là vào năm 1826. 
Thắng cảnh nổi tiếng
Năm 1965, chùa Linh Phong bị thiêu rụi hoàn toàn do chiến tranh. Đến năm 1994, Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định cử hòa thượng Huệ Quang làm trụ trì chùa Linh Phong và công việc tái thiết chùa diễn ra liên tục đến năm 2004 mới hoàn thành như ngày nay. “Khi chúng tôi đến chùa Linh Phong lần đầu tiên chỉ thấy toàn cỏ dại, những đồ vật của chùa ngày xưa không cháy cũng bị kẻ gian lấy cắp. Phật tử phải phát dọn rất nhiều thời gian mới có được con đường lên chùa, nền chùa và dấu vết 18 mộ tháp của các trụ trì đời trước mới lộ ra”, hòa thượng Huệ Quang cho biết.
Dù vậy, những tư liệu cũ để lại đều khẳng định chùa Linh Phong từng là danh thắng trước khi bị phá hủy. Sách Đại Nam nhất thống chí miêu tả: “Như chùa này (chùa Linh Phong - PV), lưng dựa non cao, mặt trông ra đầm Hải Hạc (nay gọi là đầm Thị Nại). Gần chùa có suối trong lượn quanh, vị nước vừa ngọt vừa mát lạnh, cỏ hoa xinh đẹp, cảnh trí u nhã kỳ bí, cũng là cảnh đẹp đáng xem của một phương vậy”.
Sách Đại Nam dư địa chí ước biên của Cao Xuân Dục (triều Nguyễn) chép: “Mây lành khắp chốn, chùa Linh Phong bao bọc hoa tươi” và có câu đối bằng chữ Hán, dịch ra như sau: Bờ biển dấy duyên lành, mưa móc khắp trời nhuần đẹp đất/Linh Phong ngưng khí tốt, mây lành mọi chốn phủ nhân gian.
Ngày nay, di tích lịch sử văn hóa quốc gia chùa Linh Phong là điểm viếng Phật, ngắm cảnh của rất nhiều người dân tỉnh Bình Định và du khách. Từ chân núi Bà, phải đi bộ qua hàng trăm bậc đá mới đến được chùa. Từ chùa Linh Phong, có thể nhìn dãy núi Bà hùng vĩ, cảnh làng quê thanh bình dưới chân núi, xa hơn là đầm Thị Nại bên cạnh TP.Quy Nhơn.
Hoàng Trọng

Những cây xoài ở chùa Đá Trắng

Nằm bên cạnh QL1A, chùa Đá Trắng (ở xã An Dân, H.Tuy An, Phú Yên) ngày nay vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện vừa mang tính lịch sử, lại vừa nhuốm màu tâm linh.


Xung quanh chùa Đá Trắng là những cây xoài to lớn -d
Xung quanh chùa Đá Trắng là những cây xoài to lớn - Ảnh: Lê Xuân Thọ 
Năm 1797, hòa thượng Luật Truyền, một nhà sư theo dòng Lâm Tế thiền tông, đã khởi xướng xây dựng ngôi Bạch thạch Từ Quang tự trên núi Bạch Thạch. Đại đức Thích Chúc Thuận, người được trao nhiệm vụ trông coi ngôi cổ tự này, cho hay: “Do được xây trên gò đá trắng, nên dân trong vùng hay gọi là chùa Đá Trắng, dù rằng bây giờ tên chùa là Từ Quang - Đá Trắng. Năm 1997, chùa được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia”.
Do được lập dưới triều vua Quang Toản nhà Tây Sơn, nên có lưu truyền rằng sau khi nhà Tây Sơn mất, nhiều tướng quân Tây Sơn đã chọn ngôi chùa này để xuống tóc quy y nhằm tránh sự trả thù của nhà Nguyễn.
Hai cuộc dấy binh
Đầu tháng 8.1885, kinh đô Huế thất thủ. Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi và xuống chiếu Cần Vương. Trước đó, sĩ tử Phú Yên ra ngoài trường thi ở Bình Định để trổ tài, nhận được lời kêu gọi của vua Hàm Nghi, tất cả đều bỏ lều chõng để về tập hợp dưới lá cờ Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo. Lúc bấy giờ là ngày 15.8.1885, nơi phất cờ, cũng là căn cứ của nghĩa quân chính là chùa Đá Trắng.
Một pháo đài được dựng lên ngay sau đó, với hai khẩu thần công hướng ra vịnh Xuân Đài, dưới sự chỉ huy của phó tướng Bùi Giảng, đã ngăn được quân Pháp đổ bộ vào đất liền. Trước những chiến công của phong trào Cần Vương ở Phú Yên, tháng 1.1886, vua Hàm Nghi cho sứ thần vào tấn phong Thống soái quân vụ đại thần của triều đình Cần Vương cho Lê Thành Phương (theo sách Danh nhân Lê Thành Phương).
Tiếc là sau gần hai năm dấy cờ khởi nghĩa, nguyên soái Lê Thành Phương trúng kế “điệu hổ ly sơn” của tên Việt gian Trần Bá Lộc. Trước khi bị đao phủ của kẻ địch hành quyết, ông đã cảm khái đọc lớn: “Anh hùng mạc quản doanh do luận/Tổ quốc cô hà sỉ nhục ta!”. Hôm ấy là ngày 20.2.1887, dân gian truyền rằng khi đầu ông vừa chạm đất, cũng là lúc mặt trời lên.
Sau Cần Vương, phong trào Minh trai chủ tể dưới sự chỉ huy của Võ Trứ và Trần Cao Vân cũng từng gây nên tiếng vang một thời. Võ Trứ là người Bình Định, theo giúp Mai Xuân Thưởng chống Pháp. Việc không thành, ông ẩn náu cửa Phật để chờ thời cơ. Rằm tháng 7.1898, tranh thủ lúc dân chúng, phật tử về dự lễ Vu lan tại chùa Đá Trắng, ông đã kêu gọi mọi người về dưới lá cờ Minh trai chủ tể. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa này cũng không tránh khỏi thất bại nặng nề bởi quân Pháp quá mạnh và được trang bị súng ống đầy đủ.
Thực dân Pháp ra sức tàn sát nghĩa quân, chùa Đá Trắng lại thêm một lần chứng kiến biển máu. Võ Trứ ẩn trốn trên núi Bà, sau thấy quân Pháp tra khảo, giết hại dân chúng nhiều quá nên đành từ biệt Trần Cao Vân để nộp mạng cho địch. Còn quân sư họ Trần tiếp tục lên đường tìm kế giúp vua Hàm Nghi chống Pháp.
Người dân xung quanh chùa Đá Trắng, cũng như các vị sư ở đây còn truyền tai nhau câu chuyện: vào những đêm khuya, thường thấy một vị tướng cưỡi ngựa trắng ngang qua chùa với những tiếng gươm giáo và bước chân như quân ra trận. Họ cho rằng đó là Võ Trứ cùng nghĩa quân vẫn còn ở quanh núi để che chở cho dân.
Lạ kỳ xoài tiến vua
Rủ lên Đá Trắng ăn xoài/ Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì… Ấy là nói về giống xoài ở ngôi chùa này. Đây là giống xoài tượng trái nhỏ như nắm tay thiếu niên, khác với các giống xoài khác, xoài ở đây có hoa màu vàng. Tuy nhiên, điều làm cho xoài ở đây nổi tiếng là bởi hương vị thơm dịu và ngọt lịm của nó. Và để phân biệt với các loại xoài khác, người ta gọi đây là xoài Đá Trắng.
Theo đại đức Thích Chúc Thuận, vườn xoài này là do các vị sư phụ trụ trì, tăng ni phật tử trồng, thường cho quả vào tháng tư âm lịch. Ngày nay còn khoảng 20 cây to lớn, cành lá xum xuê. Khoảng 3 - 4 năm về trước vẫn còn một cây cho quả, còn từ đó đến nay thì không hiểu sao không cây nào kết quả. Ngày nay vẫn còn nhiều chuyện lưu truyền về vườn xoài này.
Có chuyện kể rằng vào thời nhà Nguyễn, có một vị quan ghé chân chùa Đá Trắng và được các vị sư dâng tặng xoài ngon nên về kể cho vua nghe. Kể từ đó, nó trở thành món tiến vua hằng năm. Lại có chuyện, lúc chưa lên ngôi, Nguyễn Ánh trong những lần hành quân thường dừng chân ở Xuân Đài, khi thưởng thức các đặc sản ở vùng này, ông thích nhất là xoài Đá Trắng nên từ thời Gia Long, thứ quả này được cung tiến vào dịp Tết Đoan ngọ. Thậm chí, do thấy xoài quý hiếm nên quan huyện phải cử lính canh giữ, những người làm nhiệm vụ này được miễn thuế thân.
“Hái sạch”, đó là mệnh lệnh được ban ra mỗi khi thu hoạch xoài tiến vua. Số xoài sau khi hái được một đội quân nhận nhiệm vụ vận chuyển ra kinh đô. Sau đó, tiệc ngự xoài được vua mở, rồi chia đều cho các quan có chức tước cao và nhiều công trạng. Mặc dù quân lính kiểm soát rất gắt gao trong quá trình hái xoài, nhưng sau đó, các sư vẫn “mót” được vừa đủ vài đĩa xoài để dâng Phật. Về những quả xoài còn sót lại, người thì cho rằng đó là tấm lòng che chở của đất để dâng Phật. Một số người thì cho rằng, đó là tấm lòng thành kính của người hái đối với Phật. Nhờ vậy mà khi xoài chín có màu vàng, tỏa hương thơm ngào ngạt “dẫn đường” cho nhà chùa hái.
Cũng nhờ những quả xoài sót lại ấy mà giống xoài này được nhân rộng khắp vùng xung quanh cũng như nhiều nơi khác. Có điều, xoài trồng ở nơi khác độ thơm ngon lại không bằng ở chùa Đá Trắng. Dân gian lý giải là do xoài ở đây được trồng trên gò đá trắng, cũng có dòng lưu truyền là do được trồng nơi đất Phật nên xoài mới thơm ngon. Một điều khó hiểu nữa là, nhiều sư của chùa ươm cành từ những cây xoài này để trồng nhưng đều không thành công.
Lê Xuân Thọ

Bãi đá Rơ wang và dòng sông ăn thịt người

Khúc sông qua làng Rơ wang, cách trung tâm TP.Kon Tum 2 km, có một bãi đá lộ thiên nằm giữa dòng sông Đăk Bla cuồn cuộn chảy. Người Kon Tum gọi đó là bãi đá Rơ wang gắn liền với lời nguyền của một chuyện tình hận trên sông này.  


Những di tích kỳ bí - Kỳ 8: Bãi đá Rơ wang và dòng sông ăn thịt người
Bãi đá Rơ wang ngày nay - Ảnh: Phạm Anh 
Chuyện tình buồn
Tên làng Rơ wang (P.Trường Chinh, TP.Kon Tum) bắt đầu từ truyền thuyết dòng sông ăn thịt người, gắn liền với một chuyện tình đau thắt ruột. Người Tây nguyên là thế, mỗi tên đất, tên làng đều gắn với một huyền thoại nào đấy mà người xưa không giải thích được. Chẳng hạn như dòng Đăk Bla, mà theo nhà văn Tạ Văn Sỹ (được mệnh danh là “nhà Kon Tum học”), thì truyền thuyết về dòng sông ăn thịt người này được người Pháp ghi chép mà ông may mắn được tiếp cận và sưu tầm lại.
Chuyện rằng, ngày xưa làng này tên gì không ai biết. Trong làng có một đôi trai gái người Ba Na yêu nhau đắm say. Rồi ngày cưới cũng đến, cả làng mang rượu đến chúc mừng cô gái “bắt” được chồng giỏi giang, thương vợ. Hạnh phúc ngày nối tiếp ngày. Thế nhưng rất nhiều năm qua mà đôi vợ chồng này vẫn không có con, dù không biết bao lần thành tâm mang trâu, bò dê, heo, gà đi cúng yàng, cúng thần linh cầu khẩn xin một đứa con.
 Bí quá, để có người nối dõi, người chồng lén lút vợ ngoại tình với người đàn bà khác để mong có được một mụn con. Dần dần, người vợ biết được. Nỗi buồn kéo về như chứa cả dòng sông hiu quạnh trong mắt. Trong một đêm trăng mùa lũ, chờ cửa ngóng nhưng không thấy chồng về, người vợ mang rượu ra uống. Trong cơn say, tình hận nổi lên ngút ngàn, lại thêm đêm trăng không có đàn ông trong nhà tình tự, người vợ trang điểm kỹ càng và ăn mặc thật đẹp rồi đi ra phía bờ sông. Sau đó, nàng lấy thuyền độc mộc chèo ra giữa dòng, đôi mắt sầu tuyệt vọng nhìn trăng khấn: “Ô, trăng ơi, tao buồn lắm, hận thằng đàn ông nhà tao, hận đàn ông thế gian này. Sau khi tao chết đi, trăng hãy chứng giám dòng sông mang xác tao đi biền biệt. Mỗi năm trên dòng sông này phải có một người đàn ông chết đuối để trả thù cho tao nỗi hận này…”. Khấn xong, người vợ gieo mình xuống dòng sông. Con nước vô tình ôm người đàn bà hận tình ấy đi xa mãi.
Trở về nhà, người chồng không thấy vợ đâu. Nỗi hối hận ùa về, vội chạy ra sông tìm vợ, nhưng người xưa còn đâu nữa, chỉ có trăng nước bàng bạc một màu buồn tênh, hiu hắt cả bến sông. Người chồng phụ bạc ấy khóc vợ, nước mắt chảy ra thành máu, hòa quyện với dòng sông đỏ thẫm. Truyền thuyết cho rằng sông Đăk Bla luôn có màu đỏ cũng vì thế.
Ngày tháng như thoi đưa. Người chồng vẫn một mình thui thủi bám sông để sống. Đến đầu mùa lũ, đúng ngày trăng sáng người vợ tự vẫn, người chồng thả lưới trên sông. Bất chợt, thấy lung linh trăng vàng dưới nước là gương mặt sầu hận đầy nước mắt của người vợ. Thế nhưng, dù vớt tay hay chèo thuyền vội vã, hình bóng người vợ vẫn ở phía trước mà người chồng không tài nào đuổi kịp. Người chồng dùng hết sức mình chèo thuyền đuổi theo, cuối cùng va vào một bãi đá giữa dòng sông, thuyền vỡ tan và anh chết đuối. Sống không trọn vẹn, nhưng cùng nhau chết trên một dòng sông, lời nguyền của người vợ thành hiện thực và người chồng là người đàn ông đầu tiên trả nợ lời nguyền. Bây giờ, tảng đá ấy vẫn còn, dân làng gọi là bãi đá Rơ wang và làng ở đấy cũng lấy tên làng Rơ wang. 
Dòng sông ăn thịt người
Đứng ở bến làng Rơ wang nhìn ra, dòng sông uốn khúc phẳng lì dài mấy ki lô mét, chỉ duy nhất bãi đá Rơ wang nổi lên giữa dòng. Mùa này con nước còn lớn, bãi đá Rơ wang không lộ ra hết, chỉ nhô lên một đoạn khoảng 5 m, hai bên bãi đá chính có hai tảng đá nhỏ kề cận. Mùa nước cạn, người làng
Rơ wang hay ra bãi đá này hóng mát. Những đêm trăng, trai gái cũng dắt nhau ra đây thề nguyền. Ngày xưa, bãi Rơ wang kết thúc một chuyện tình buồn, bây giờ nó lại là nơi khởi đầu của tình yêu và có thể, bãi đá này cũng in dấu bao nhiêu chuyện tình đầy nước mắt.
Đã cuối tháng 10, con nước trên sông Đăk Bla, biểu tượng của tỉnh Kon Tum, dòng chảy đã hiền hòa. Những buổi sớm chiều, khi ánh dương trải dài, sông như dát vàng, uốn lượn lấp lánh giữa lòng phố xá, làm mê mẩn lòng khách thập phương. Phải chăng, dòng sông chỉ đẹp khi có chuyện tình buồn, người càng mê mẩn với sông khi biết thêm huyền thoại trên sông. Tình là chi, để hẹn thề rồi phụ bạc, rồi chia xa để lại oán hờn qua suốt tháng năm. Để bãi Rơ wang tháng năm trầm mặc với sông hồ.
Có ý kiến cho rằng, sở dĩ có tên bãi Rơ wang là vì ngày xưa chàng trai tên là A Rơ, còn cô gái là Y Hwang và tên bãi đá là ghép âm từ tên hai người. Thế nhưng vào làng Rơ wang, hỏi thăm vì sao có tên Rơ wang, thì cả già làng ở đây cũng không biết tên đá, tên làng có từ bao giờ.
Nhà văn Tạ Văn Sỹ, suốt gần 50 năm qua sống dọc dòng sông này, chịu khó đi tìm tư liệu tên bãi đá và làng Rơ wang có từ bao giờ, nhưng chưa ai giải thích, chưa có sách nào ghi lại. Còn chuyện này thì có thật: ấy là năm nào cũng có người nhảy sông Đăk Bla tự vẫn. Vì vậy, sông dù đẹp vẫn còn có tên là “dòng sông ăn thịt người”. Theo tiếng Ba Na, Đăk có nghĩa là nguồn nước, Bla (nguyên gốc là Blăh) nghĩa là cuồng nộ, hung bạo. Dòng Đăk Bla còn có tên là dòng sông hung bạo, nhấn chìm tất cả mọi thứ trên sông vào mùa mưa lũ và nhiều người đã chết đuối, nhất là đàn ông. Đến nay, chưa ai giải thích được điều này. Còn giải thích theo cách đơn giản nhất, thì do mỗi mùa lũ, trên sông Đăk Bla cá và củi, gỗ trôi về đây rất nhiều, đàn ông hay kiếm ăn mà bị chết đuối.
Phạm Anh

Dòng sông chảy ngược và cổ tích cây đôi

Chuyện tình của dòng sông chảy ngược

Dòng sông chảy ngược Đăk Bla - Ảnh: Phạm Anh 
Theo truyền thuyết người Kon Tum kể lại, thuở xưa dòng sông Đăk Bla còn chảy xuôi hướng tây - đông chứ không chảy nghịch dòng đông - tây như bây giờ. Thế nhưng có một tình yêu thủy chung nhưng đầy nước mắt đã làm cho dòng sông này biến đổi dòng chảy.

Theo sưu tầm của nhà văn Tạ Văn Sỹ (ngụ Kon Tum), chuyện dòng sông chảy ngược có từ ngày xưa, lúc chiến tranh giữa các bộ lạc, sắc tộc còn hoành hành khắp Tây nguyên. Thuở ấy, các buôn làng thường xuyên đưa quân đi đánh phá, cướp bóc lẫn nhau. Làng bên hữu ngạn phía thượng nguồn và làng bên tả ngạn phía hạ nguồn có mối thù không đội trời chung. Oái oăm thay, chàng trai bên này sông và cô gái bên kia sông yêu nhau say đắm. Hai người biết là không bao giờ làng cho họ lấy nhau, mà rời xa nhau thì không thể. Dòng sông vô tình chứng kiến những dòng nước mắt đau buồn của đôi tình nhân trong những đêm hò hẹn.
Tuyệt vọng, chàng trai hẹn cô gái vào đêm trăng sáng cùng ra bờ sông phía làng mình đâm dao tự sát nhào xuống sông để cùng trôi về nơi không có hận thù. Dòng máu của chàng trai tuôn ra, trôi xuôi về đông tìm người yêu. Lạ lùng thay, dòng máu cô gái lại ngược dòng chảy, lặng lẽ tìm đến dòng máu chàng trai đang trôi xuống. Khi hai dòng máu gặp nhau, theo tập quán mẫu hệ, máu chàng trai nhập hòa vào máu cô gái và nó lại trôi ngược lại theo hướng dòng máu cô gái đang trôi, cuốn luôn cả dòng sông trở dòng trôi về hướng ấy.
Sáng hôm sau, làng ở đầu sông và làng ở cuối sông vô cùng ngạc nhiên khi thấy con sông thân thuộc bao đời nay bỗng có dòng nước màu đỏ, lại chảy ngược về tây. Khi biết ra sự thật, hai làng thức tỉnh, gạt bỏ hận thù, kết nghĩa anh em, sống hòa hiếu yên lành. Sông từ ấy cứ chảy ngược về tây, không đổi dòng được nữa. Còn dòng chảy trên sông luôn có màu phù sa đỏ quanh năm như bây giờ.
Thực ra, dòng Đăk Bla dài 139 km, bắt nguồn từ dãy Ngọc Linh, huyện Tu Mơ Rông (Kon Tum), cũng chảy theo hướng sông ngòi Việt Nam. Thế nhưng khi đến huyện Kon Rẫy, dòng chảy bất thần bẻ ngược theo hướng bắc - nam và đến TP.Kon Tum, dòng chảy Đăk Bla lại thêm lần nữa bẻ dòng theo hướng đông - tây. Có ý kiến cho rằng, dòng sông này vốn hung bạo và chảy ngược, nhưng rồi sẽ hết đi bởi một khi các công trình thủy điện trên sông hoàn tất, khi đó con đập ngăn dòng chia nước về sông Trà sẽ khiến sông Đăk Bla trở thành sông chết như “người anh em” của nó là sông Ba ở Gia Lai. Có lẽ, khi trở thành dòng sông chết, Đăk Bla lại thêm một huyền thoại của đời sau...
Cổ tích cây đôi
Trên bờ Đăk Bla thơ mộng có cây si và tơ đáp cộng sinh, ôm cuốn vào nhau như đôi người tình tự. Vì sao cây có hình dáng kiểu này, người Kon Tum cho hay cũng liên quan đến một chuyện tình sắt son nhưng trắc trở. Chuyện kể rằng, thuở chiến tranh bộ tộc, bên kia và bên này sông có hai làng thù nhau dai dẳng. Bất chấp mối thù làng, có đôi trai gái cứ yêu nhau tự nhiên như cây rừng nước suối. Khi biết chuyện, hai làng ngăn cấm.
Một đêm trăng cuối năm, vào mùa ning nơng, chàng trai lẳng lặng rời bỏ hội làng bơi xuồng độc mộc sang bờ gặp người yêu nơi điểm hẹn. Cô gái cũng lặng lẽ rời vòng xoang ra bên bờ đón đợi. Trong cái lạnh rét căm căm của núi rừng, hai người ôm ghì lấy nhau để truyền hơi ấm và cùng nhau than thở duyên tình. Đến khi nghe tiếng gà eo óc gáy, vì sợ người làng thấy, hai người liền biến thành đôi cây quấn sít vào nhau. Chàng thành cây si xòe tán lá xanh mơn, nàng thành cây tơ đáp vươn ngọn lên cao nở những chùm hoa đỏ thắm soi ửng ánh hồng xuống tán lá xanh.
Ngày sống không trọn đời nhưng chết xuống, hai người biến thành hai cây cổ thụ ôm nhau mãi mãi không rời ra. Từ đó về sau, cứ đến mùa tháng 3, cây đôi một gốc hai ngọn này lại tỏa màu hoa đỏ rực, tô thắm góc phố phường bên dòng Đăk Bla, đẹp như chuyện tình đôi trai gái ngày nào. Có không ít hiểu lầm cho rằng màu hoa đỏ là cây pơ lang (hoa gạo), tuy nhiên đây là cây tơ đáp chứ không phải pơ lang.
Cũng gần cây đôi này, trước đây có cây dông to lớn vút trời xanh. Ai đi đâu, về đâu cũng thấy cây đôi và cây dông tỏa mát, thư thái tâm hồn. Ngày trước, dọc theo dãy cây này là nhà làm việc của giới chức Pháp như nhà công sứ, phó công sứ, trại lính, đồn cảnh sát, bưu điện, ngục Kon Tum... Thế nhưng đến bây giờ, mấy cây huyền thoại này không còn nữa. Năm 2012, kỷ niệm 100 năm Kon Tum, chính quyền ở đây đã cắt bỏ mất phần nhô cao của cây tơ đáp, chỉ để lại một bóng si già thấp tè đơn độc buồn thiu như trầm ngâm trong niềm tiếc nhớ. Cây si lẻ bóng cô đơn, ngày càng ủ rũ xác xơ thảm hại và sang năm 2013 thì chết hẳn. Còn cây dông, chính quyền cũng cho chặt đi để mở mang giao thông, làm bùng binh ở cửa ngõ vào TP.Kon Tum. Mọi người tiếc ngẩn ngơ một cảnh quan tự nhiên độc đáo giữa lòng phố xá Kon Tum.
Bây giờ, sông còn đó, tình người còn đây, chỉ có cây đôi là không còn. Mai này cổ tích cây đôi sẽ còn được kể lại cho đời sau, nhưng bóng cây đôi chung thủy theo thời gian trôi mãi mãi vào cổ tích. Và, dòng Đăk Bla với những chuyện tình buồn cũng sẽ không phôi pha, gợi cho hồn du khách nhớ Tây nguyên xanh với những câu chuyện bí ẩn mang chút tơ buồn…
Phạm Anh

Truyền kỳ những pho tượng Phật lồi

Trên bán đảo Phương Mai (TP.Quy Nhơn, Bình Định), có nhiều pho tượng được người dân địa phương gọi là Phật lồi và lưu truyền nhiều câu chuyện về sự linh thiêng.


Chùa Phước Sa - d
Chùa Phước Sa - Ảnh: Hoàng Trọng 
Vị Bồ tát bảo hộ làng chài
Ngoài tượng Phật lồi ở thôn Hải Giang (đã đề cập ở bài 1), xã Nhơn Hải còn có pho tượng khác được gọi là tượng Phật Bà lồi ở chùa Hương Mai (thôn Hải Nam). Dân chài xã Nhơn Hải xem đây là vị Bồ tát phù hộ cho nghề nghiệp của mình.
Theo ông Võ Văn Duẩn (60 tuổi, ở thôn Hải Nam), khoảng 100 năm trước, một ngư dân thôn Hải Nam kéo lưới tại vùng biển gần đảo Hòn Khô (thôn Hải Đông, xã Nhơn Hải) thì lưới bị vướng không kéo lên được. Nhiều bạn chài khác tập trung lại, cùng nhau kéo lưới lên thì thấy một khối đá có dạng người ngồi xếp bằng, chỉ có đầu và thân, phần mặt và tay chân chưa rõ nét. Mọi người cùng nhau thỉnh khối đá về làng, lập chùa Hương Mai để thờ và bàn nhau thuê thợ đắp thêm xi măng cho tượng, tạo dáng một vị Phật. Dân làng lần lượt tạo tượng theo dáng của Phật A di đà rồi Phật Thích Ca nhưng xi măng đắp lên tảng đá ấy cứ trôi tuột đi. Cuối cùng, khi đắp tượng theo dáng của Bồ tát Quán Thế Âm thì mới thành công.
Đại đức Thích Quảng Thức, trụ trì chùa Hương Mai, kể: “Sau khi thờ cúng tượng Bồ tát, dân Nhơn Hải làm biển được mùa nên tiếng lành đồn khắp nơi. Dân ở một đảo xa cũng thuộc TP.Quy Nhơn tổ chức trộm tượng Bồ tát ở Nhơn Hải về thờ tại làng mình. Từ đó, làng chài kia làm biển trúng mùa còn làng chài Nhơn Hải lại liên tiếp thất bát. Sau khi biết được tượng Bồ tát ở làng mình bị đánh cắp, dân Nhơn Hải kiện lên quan phủ. Quan phủ buộc dân đảo kia phải trả tượng và dân Nhơn Hải lại làm ăn khấm khá”.
Theo tài liệu của Giáo hội Phật giáo tỉnh Bình Định thì chùa Hương Mai được xây dựng vào năm 1920 và tổ khai sơn là hòa thượng Thích Tâm Hoàn (1924 - 1981). Tuy nhiên, đại đức Thích Quảng Thức cho biết có nhiều ý kiến khẳng định chùa Hương Mai được xây dựng từ thế kỷ 18, hòa thượng Thích Tâm Hoàn là trụ trì đầu tiên chứ không phải là người khai sơn chùa này.
Tượng Phật cổ 2 lần bị trộm
Chùa Phước Sa (ở thôn Lý Chánh, xã bán đảo Nhơn Lý, TP.Quy Nhơn) cũng có pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng đồng rất quý. Theo cụ Võ Thùy (88 tuổi, ở thôn Lý Chánh), tượng Bồ tát này được ông Võ Bích (đã mất) phát hiện vào năm 1919. Năm đó, làng Xương Lý (nay thuộc xã Nhơn Lý) mất mùa, ai cũng đói khổ. Một đêm tháng chạp, ông Bích đi bắt còng ở triền đốc Cát Trắng (nay là Xóm Mới, thôn Lý Hòa) bỗng thấy hào quang lấp lánh dưới ánh trăng. Tiến lại gần, ông Bích phát hiện đầu người nên hoảng sợ chạy về nhà.
Đến nhà, ông Bích lại đau bụng dữ dội, kêu la hàng xóm. Sau khi nghe ông Bích kể lại, người làng rủ nhau đến nơi xảy ra sự việc để xem. Ông Bích ngồi dậy dẫn đường cho mọi người thì bỗng dưng hết đau bụng. Đến nơi, mọi người thấy tượng Bồ tát Quán Thế Âm lồi hẳn lên khỏi mặt cát. Dân làng tiếp tục đào bới xung quanh phát hiện thêm 2 tượng di lặc bằng sành nhưng một tượng đã bị vỡ do lưỡi cuốc đụng nhầm.
Đầu tiên, các pho tượng được đem về thờ trong một miếu cổ. Năm sau, dân làng Xương Lý che một cái am bằng tranh trên núi Cấm để thờ tượng Bồ tát. Từ đó, dân vạn chài Xương Lý ăn nên làm ra, tiếng tăm về sự linh thiêng của Bồ tát đồn đi khắp nơi và bọn trộm cắp cũng tìm đến. Một đêm tháng 4.1921, tượng Phật bị trộm nhưng không ai biết. Sáng hôm sau, dân làng tổ chức lợp lại mái đình làng Xương Lý giữa chừng thì hết lạt nên mọi người rủ nhau đón tre để chẻ. Đang lúc đón tre thì bất ngờ cái rựa trong tay ông Hương kiểm bay vào trong một lùm cây. Ông Hương kiểm đi xuống tìm thì phát hiện một cái bao, mở ra xem thì thấy tượng Bồ tát của làng.
Sau lần đó, vì sợ bọn trộm nên dân làng rước Bồ tát về thờ tại chùa Thánh ở mặt biển Vũng Nồm để có người trông coi. Năm 1922, làng Xương Lý dựng chùa Phước Sa sau lưng chùa Thánh để thờ Bồ tát. Đến tháng 9.1978, trộm lại viếng chùa Phước Sa, lấy đi tượng Bồ tát Quán Thế Âm lần nữa. Làng Xương Lý nghe tin mất tượng, ai cũng lo sợ điềm xấu, lan truyền những điều không may… “Vài ngày sau, chùa Thiên Long (H.Tuy Phước, Bình Định) phát hiện tượng Bồ tát trong một bụi trúc gần chùa nên báo tin cho làng Xương Lý thỉnh về. Sau khi bị bắt, bọn trộm (gồm 1 người trong làng và 2 người ở nơi khác) khai rằng chúng gặp rất nhiều chuyện kỳ lạ khi thay phiên nhau vác tượng Bồ tát chạy nên đành phải giấu lại gần chùa Thiên Long”, cụ Thùy kể.
Chùa Phước Sa còn có tượng Chuẩn Đề lồi lên từ lòng đất, gần nơi Bồ tát Quán Thế Âm lồi lên, được một người dân tìm thấy vào năm 1945. Tượng bằng đồng, cao khoảng 0,2 m, có 8 tay, mỗi tay một tư thế. Theo TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định, đây là tượng Avalokitesvara, một vị bồ tát của phái đại thừa, có niên đại thế kỷ 9-10.
Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn (nguyên quán ở xã Nhơn Lý), ngày xưa, khu vực Vũng Nồm (chỗ chùa Phước Sa bây giờ) có ngôi chùa cổ do người Chămpa để lại rất linh thiêng. Tất cả tàu bè qua lại đầm Nha Phiên để vào cửa Thử (nay thuộc xã Cát Tiến, H.Phù Cát, Bình Định), khu buôn bán sầm uất từ thời Tây Sơn trở về trước, đều phải ghé lại chùa này dâng hương, cầu cúng. “Tượng Bồ tát và tượng Chuẩn Đề ở chùa Phước Sa có thể là tượng của người Chămpa để lại, rất có giá trị về mặt nghệ thuật và lịch sử nên cần được nghiên cứu kỹ hơn”, cụ Liễn nói.

Trong sách Những ngôi chùa tiêu biểu trong tỉnh Bình Định, tác giả Đặng Quý Địch khẳng định trụ trì đầu tiên của chùa Phước Sa là hòa thượng Thiện Giai, tên thật là Võ Ngọc Hồ (1889-1968), thân sinh của nhà nghiên cứu văn học và nghệ thuật tuồng Vũ Ngọc Liễn (vốn họ Võ) và nhà thơ Võ Ngọc An.
Hoàng Trọng

Hổ trắng ba chân về nghe kinh Phật

Ở đường Mạc Đĩnh Chi, P.Quang Trung, TP.Kon Tum, tỉnh Kon Tum bây giờ còn một ngôi chùa và ngôi đình có lối kiến trúc cổ xưa. 

Những di tích kỳ bí - Kỳ 11: Hổ trắng ba chân về nghe kinh Phật
Bên trong đình Võ Lâm - Ảnh: Phạm Anh
Dấu chân người khai sơn
Ít ai biết, chùa và đình này được xây từ chính bàn tay của những người miền xuôi lên khai khẩn đất Kon Tum. Đây là chùa tổ đình Bác Ái và đình Võ Lâm, tuy hai nhưng lại là một.
Từ giữa thế kỷ 19, người dân ở các tỉnh duyên hải miền Trung tìm lên sinh cơ lập nghiệp tại Kon Tum ngày một đông. Tuy nhiên, do chỉ có con đường độc đạo đi từ tỉnh Bình Định lên Tây nguyên nên thuở ấy, người Bình Định đặt chân lên Kon Tum sớm nhất. Theo đó, dòng di dân đầu tiên chính là những gia đình Thiên Chúa giáo trốn lệnh bắt đạo gay gắt của triều đình nhà Nguyễn, theo chân các cha cố Hội Truyền giáo Kon Tum. Dòng thứ hai là những gia đình muốn thoát cảnh sưu cao thuế nặng, hoặc trốn tránh những rắc rối về mặt pháp luật đang gặp phải ở quê nhà.
Theo sách Kontum tỉnh chí của Võ Chuẩn (sinh năm 1896), tại TP.Kon Tum hồi đó, Võ Lâm là làng thứ ba (sau làng Trung Lương và Lương Khế) ở nội thị Kon Tum gồm những gia đình ngoại đạo. Sách viết: Năm 1933 những người ngoại đạo xin phép lập một cái chùa thờ Phật và quy y các vong linh những người chết mà thân thuộc không thể đem thi hài về xứ được, ban đầu chùa lấy tên là Linh Sơn về sau đổi thành Bác Ái. Theo trụ trì đời thứ 4 chùa Bác Ái là hòa thượng Thích Chánh Quang, chính quan Quản đạo Kon Tum là Võ Chuẩn đã cho phép dựng chùa Linh Sơn. Tự ông Võ Chuẩn vẽ thiết kế và huy động nhân công phát hoang rừng rú, lấy đất xây chùa. Nhờ vậy, khởi công trong 10 tháng đầu của năm 1932, đến đầu năm 1933 thì chùa hoàn tất, với vách bằng mành tre, lợp ngói âm dương. Lúc xây chùa, xung quanh còn nhiều rừng rậm rạp. Phía sau chùa là rừng với nhiều cây đại thụ lớn. Còn phía trước chùa là con suối Bác Ái, nay đã bị lấp.
Sau khi xây dựng xong chùa Linh Sơn (tức Bác Ái), Võ Chuẩn đã chiêu mộ dân chúng khai hoang lập khu dân cư quanh khu vực chùa, tức làng Võ Lâm sau này. Theo sách Kon Tum - Di tích và danh thắng, tên làng Võ Lâm được giải thích: Võ là họ của Võ Chuẩn, người công đầu trong việc lập làng, còn Lâm nghĩa là rừng. Công việc khẩn hoang lập làng kéo dài từ năm 1933 đến 1935. Lúc này bà con dân làng bàn chuyện dựng đình Võ Lâm và chọn gần chùa Linh Sơn. Chính ông Võ Chuẩn chỉ định vị trí đất và giao quan Đề lại Hồ Thượng Chất chủ trì thi công đình với diện tích ban đầu khoảng 1.000 m2. Trước, đây là nơi sinh hoạt cộng đồng, thờ tự âm linh cô bác, tổ thần thổ địa, về sau làm nơi thờ tự những vị tiền hiền khai canh và nay nó là nơi thờ Thành hoàng làng Võ Lâm là Quản đạo Võ Chuẩn. 
Hổ dữ hóa hiền
Đưa chúng tôi đi thăm cảnh chùa, trụ trì Thích Chánh Quang cho biết khi chùa Bác Ái khánh thành, chính vua Bảo Đại đến dự và sắc phong biển Sắc tứ Bác Ái tự. Biển này giờ vẫn còn son đỏ và chữ vàng, không phai mờ. Từ đó, chùa chuyển sang tên Bác Ái. Sở dĩ có tên Bác Ái là do vua Bảo Đại biết chùa có gần 40 mẫu ruộng tốt, nhưng khi thu hoạch đều phân phát cho người nghèo, bất kể tín đồ hay tôn giáo khác hay cô khổ ở mọi nơi bước chân vào chùa xin cơm gạo.

Tại đình Võ Lâm, hằng năm vào các ngày 12.2 và 12.8 âm lịch, dân sinh sống trong làng tề tựu đông đủ, cùng nhau đóng góp tiền của tổ chức ngày tế để tưởng nhớ tiền nhân. Trước 1975, mỗi dịp tế đình, bà con còn rước gánh hát bội Bình Định lên diễn mấy ngày liền. Bây giờ ở đình Võ Lâm, hình con bạch hổ được chạm khắc ở ngay bình phong vào chính điện thờ. Theo giải thích của sư Thích Chánh Quang, bạch hổ ở đây không chỉ trừ tà mà còn ngăn ngừa được “ma rừng” theo quan niệm của người bản địa.
Trụ trì Thích Chánh Quang còn cho hay khi chùa xây lên, khói hương không ngớt hưng thịnh. Thế nhưng, xung quanh vẫn là rừng hoang, đêm đêm tiếng thú dữ đi ăn đêm vẫn gầm rú, nhà chùa nghe có cảm giác bất an. Có điều chưa có thú dữ nào xông vào chùa phá phách hay bắt chó, gia súc nuôi. Vậy mà vào một buổi chiều khoảng cuối năm 1932, cả chùa giật thót khi thấy một con bạch hổ ba chân lừ lừ từ rừng đi vào chùa. Con bạch hổ này vốn nổi tiếng hung bạo ở rừng này. Nó tấn công và ăn thịt tất cả các loài thú. Khi thiếu mồi, nó còn tấn công cả người. Một khi bạch hổ đã ăn thịt người thì nó càng hung tợn, càng dữ hơn bất cứ loài thú ác nào.
Lạ thay, khi bước vào chùa, con bạch hổ ba chân này không gầm gừ mà cong đuôi hiền lành về nằm tại khu bếp của chùa. Đầu bạch hổ gác lên hai chân trước, tai dỏng lên, mũi hít hít, còn mắt thì lim dim như tận hưởng cái gì đấy rất yên lành. Đến khoảng 20 - 21 giờ, các sư trong chùa vào chính điện để tụng kinh Phật, con bạch hổ cũng tiến về chính điện, nằm phủ phục ngoài cửa điện thờ, quỳ hai chân trước, đầu gác lên, còn một chân sau thì sãi ra. Khi hết giờ tụng kinh, các sư về nghỉ, bạch hổ lại chui vào gian bếp. Đến 4 giờ sáng hôm sau, nó lại dậy nghe kinh Phật lần nữa, rồi khi trời còn tờ mờ sáng thì vào rừng.
Cứ thế suốt 10 năm, con bạch hổ ngày nào cũng về chùa nghe kinh Phật như vậy. Các sư trong chùa quen dần, lấy tay vuốt lông, có người còn cưỡi lên, nhưng con bạch hổ vẫn hiền lành, đưa lưỡi liếm tay các nhà sư. Trụ trì Thích Chánh Quang đưa chúng tôi đi tham quan, chỉ gian bếp nơi bạch hổ về nằm, phía ngoài gian chính điện bạch hổ nằm nghe tụng kinh Phật. Đáng nói nữa là, từ khi về chùa Bác Ái nghe kinh Phật, xung quanh chùa thú dữ tránh đi hết, trong vùng không còn xảy ra các chuyện đau thương như người bị hổ vồ, hay thú dữ tấn công vật nuôi của làng Võ Lâm nữa. Đến khoảng năm 1943 thì bạch hổ bỏ đi đâu không ai biết.
Phạm Anh - Tạ Văn Sỹ

Thầy tu đả hổ

Không còn nhiều người ở thôn Phú Liên (xã An Phú, TP.Tuy Hòa, Phú Yên) nhớ về những câu chuyện xung quanh hang Hổ, cách đó không xa. 


 Những di tích kỳ bí - Kỳ 13: Thầy tu đả hổ
Phía dưới tảng đá đen này chính là hang Hổ - Ảnh: Lê Xuân Thọ
Hồ “than thở”
Hang Hổ nằm trên hòn núi tiếp giáp dãy Trường Sơn, ở độ cao khoảng 100 m so với mực nước biển. Phía dưới, trước chân hang Hổ có một hồ nước, nay gọi là đập Lỗ Ân, có người cho rằng hang Hổ cũng góp nước cho hồ này. Sau năm 1975, dân đắp thành đập để phục vụ sản xuất nông nghiệp nhưng nay đập đã hư hỏng hoàn toàn. Trước đó, hồ nước này gắn liền với vài câu chuyện tình đầy ngang trái.
Ví như chuyện có đôi trai gái yêu nhau thắm thiết, thề non hẹn biển, đợi ngày nên nghĩa phu thê. Nào ngờ cô gái thay lòng, hám giàu mà lấy một phú ông góa vợ. Chàng trai quá đau khổ, lên hang Hổ ngồi khóc đến nỗi nước mắt chảy thành dòng suối rồi tạo thành hồ nước. Ngày nay vẫn còn câu ca dao: Tiếng đồn hang Hổ nhiều beo/Có vài giạ lúa nó theo ầm ầm. “Nó” là ý nói những cô gái thay lòng.
Lại có chuyện rằng, hang Hổ là nơi tình tự, hẹn hò của những đôi trai gái yêu nhau. Khi đường tình duyên trắc trở, những kẻ “thất tình” tìm đến nơi này để gom góp kỷ niệm của ngày nồng ấm. Rồi khóc than cho cuộc tình lỡ, có lẽ quá nhiều mối tình dang dở mà nước mắt thành hồ nước lớn. Cũng vì vậy hồ được ví như hồ “than thở”, và đây là một trong số ít câu ca dao nói về chuyện này: Lời thề hang Hổ ngày nào/Ai mà phụ bạc, trên cao có trời.
Xung quanh hồ nước là vùng đất tương đối bằng phẳng, lại có một phiến đá lớn. Theo anh Nguyễn Chí Quốc - người ở thôn Phú Liên, ngày nay nam nữ thanh niên vẫn thường đến đây vui chơi, dù đường đi hơi trắc trở. Trong tương lai gần, người ta sẽ ngăn đập nhằm ổn định nguồn nước tưới cho nông dân xã An Phú và các vùng lân cận.
Thuần phục hổ dữ
Hang Hổ trước kia có tên gọi là hang Chùa, nguyên nhân của cái tên là do một vị thầy tu (không rõ thời nào) đến sống ẩn dật, tu hành. Dân quanh vùng không nhớ rõ là vị thầy tu này có phép thuật gì hay không, chỉ biết ông rất giỏi trong việc thuần phục thú dữ, thân mang võ công cao nên ông dùng để “trị” hổ.
Đúng như tên gọi, trước khi thầy tu này đến, hổ sống rất nhiều ở trong và xung quanh hang. Ngày ngày, dân sống dưới chân núi luôn khiếp sợ bởi tiếng gầm hú ghê rợn của các “ông ba mươi”. Không ít người vì mải mê săn bắn thú rừng mà bỏ mạng dưới nanh vuốt của hổ dữ. Từ ấy, dân quanh vùng không ai dám bén mảng đến gần hang hổ. Mãi cho đến khi vị thầy tu xuất hiện và sống ở đó, người dân mới an tâm làm rẫy, săn thú.
Sở dĩ có chuyện này là vì theo lưu truyền, vị thầy tu đã làm cho bầy hổ trở nên thân thiện với người dân. Để nhớ ơn, khi ông qua đời, dân lập miếu thờ ông Tạ Từ ngay trong hang, nay đã không còn dấu vết. Khi vị thầy tu mất, thì hổ tái “chiếm đóng” hang, những bầy hổ bỏ đi nơi xa cũng quay trở lại. Dân trong vùng, vì muốn sống yên ổn nên tổ chức thanh niên trai tráng, những người giỏi võ để giết hổ.
Trong cuốn Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú Yên xuất bản năm 2007 của tác giả Nguyễn Đình Chúc, có đoạn miêu tả hang Hổ như sau: “...Những cụm đá ở đây hình như được thợ tạo đã dày công sắp xếp nhỏ lớn theo dãy núi. Mỗi cụm là một cái hang ăn sâu vào lòng đất, có thể chứa 2 - 5 người. Hang lớn nhất là hang Hổ chứa được từ 30 - 40 người. Hang cao đến 5 m, đi đứng qua lại dễ dàng. Trong hang có nhiều tảng đá bằng có thể ngồi nằm thuận tiện. Phía trước có một hòn đá ba cạnh đứng thẳng, đỉnh nhọn gọi là tảng đá Giáo và giống đá thiên nhiên với đường kính 3 m. Cấu tạo hang Hổ rất đặc biệt. Mới nhìn ta tưởng thời xa xưa có ông khổng lồ bê từng tảng đá chồng lên nhau, tạo thành hang mà dừng chân. Cửa hang lại có một tảng đá nhỏ nhô lên như cái bình phong, chia thành hai lối đi tả hữu”. 
Dấu xưa phai nhòa
Trong quá trình hỏi đường lên hang Hổ, nhiều người nhìn tôi ái ngại. Dù sẵn lòng chỉ đường, nhưng họ luôn miệng khuyên: “Từ đây lên đó không xa lắm, nhưng nếu không có người dẫn đường thì khó mà tìm đến hang Hổ được”. Hỏi mới biết, chính họ cũng không hiểu vì sao dù cách khoảng 2 km và có thể nhìn lên thấy, nhưng những người nếu không thường xuyên lên xuống hang Hổ thì sẽ không tài nào tìm đến hang được.
Theo chân anh Nguyễn Chí Quốc khoảng 30 phút leo núi, chúng tôi đến được “địa phận” của hang Hổ. Tuy nhiên, cả hai không thể nào tiếp cận được hang bởi dây leo, cây rừng chằng chịt đã phong tỏa mọi đường vào. Anh Quốc bảo: “Cách đây khoảng chục năm vô hang dễ vì người ta đã chặt hết rừng bạch đàn, sau đó trồng lại rừng nên giờ mới rậm rạp thế này”.
Từ dưới đập Lỗ Ân, dễ dàng thấy một tảng đá màu đen, phía trước và hai bên tảng đá này bị vây bởi rừng bạch đàn. Anh Quốc cho biết dưới tảng đá ấy chính là hang Hổ. Thời kháng chiến, hang Hổ chính là nơi ẩn nấp của du kích, căn cứ giao liên giữa hai miền xuôi ngược. Địch dù biết nhưng chỉ dám đánh từ xa chứ không dám lại gần, bởi địa thế có lợi cho du kích.
Ông Nguyễn Phụng Kỳ (72 tuổi, người thôn Phú Liên), một trong số ít những du kích chống Mỹ từng sống hai năm ở hang Hổ, kể: “Hồi tôi lên ở hang Hổ thì trong hang tuy rộng nhưng phải khom người mới vào được, trong ấy rất bằng phẳng và chỉ có đất, chứa được khoảng hai tiểu đội. Phía trước hang thì đá lởm chởm, hai bên là dây rừng, bụi gai. Xung quanh hang Hổ còn có mấy hang nhỏ nữa. Những năm gần đây, chính quyền địa phương hay tổ chức các cuộc về nguồn để anh em thăm lại nơi chiến đấu xưa. Tiếc là chỉ có thể “dựng trại” ở đập Lỗ Ân, vì đường vào hang Hổ đã bị bít bởi cây rừng, có lẽ vì vậy không nhiều người nhớ về hang Hổ nữa”.
Lê Xuân Thọ

Giếng trời ở chùa Hang Lý Sơn

Dẫu đường đến đã thuận tiện hơn so với trước, lại có nhiều du khách viếng thăm, nhưng chùa Hang (thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi) vẫn trầm mặc một cách kỳ bí như hàng trăm năm qua.

Đường xuống âm phủ
 
Chùa Hang nhìn từ phía biển
Chùa Hang có tên chữ là Thiên khổng thạch tự. Theo gia phả của họ Trần, dòng họ trông coi chùa Hang, ngôi chùa này khoảng 300 năm tuổi. Phía trước hang có một giếng nước (nay được thay thế bằng hồ), người ta gọi là “giếng trời” bởi nó chứa nước từ trên vách đá rỉ xuống. Quãng thời gian bị cướp biển (giặc Tàu Ô) quấy nhiễu, chùa Hang là nơi ẩn nấp an toàn của người dân. Chính nước của “giếng trời” này giúp họ cầm cự, thậm chí là tăng thêm sức mạnh. Tin rằng nguồn nước này đem lại may mắn, ngày nay, dân trên đảo vẫn thường uống một ngụm nước từ “giếng trời” khi đến thăm chùa. Người ta còn “nói nhỏ” nhau, khi uống không được nhìn thẳng vào đáy giếng, như thế mới thiêng!
Bên trong chùa là một hang sâu 24 m, rộng 20 m, cao 3,2 m, ngoài ra còn nhiều ngóc ngách. Phía bên trái sát mép động đá có bàn thờ những âm binh, cô hồn và một tượng đức Hộ pháp cao 0,8 m, mới đưa về thờ vào đầu tháng 4.1993 do bà con nhân dân đảo Lý Sơn làm ăn sinh sống ở TP.HCM cúng chùa. Động đá này, ngày nay chính xác hơn chỉ còn là một hốc đá. Tương truyền, xưa kia đây là đường xuống âm phủ.
Theo quan niệm thiện - ác song hành, gian chính của chùa Hang là dành cho cái thiện, những người biết ăn năn hối lỗi. Ngược lại, người mắc tội nếu không chịu quay đầu sẽ bị đày xuống âm phủ theo hang nhỏ hơn bên cạnh. Trước khi có con đường bê tông chạy đến đầu dốc xuống chùa, muốn đến chùa phải men theo sườn núi đầy trắc trở. Đoạn sườn núi ăn ra phía biển người ta gọi là cái meo, là nơi nhiều người không may trượt chân rơi xuống bãi đá biển và bị thương, thậm chí là mất mạng.
Vì đường đi khó như thế nên người lớn thường “vin” vào những chuyện huyền bí xung quanh “đường xuống âm phủ” và thêu dệt nên chuyện “tàu ma” chuyên bắt trẻ con để ăn thịt nhằm làm nhụt chí lũ trẻ muốn đi chơi ở chùa Hang. Chuyện thêu dệt này, có “điểm tựa” hẳn hoi, và nó liên quan đến giặc Tàu Ô, khi bọn cướp biển này bắt phụ nữ và trẻ em mang lên tàu mỗi lần chúng đổ bộ lên đảo cướp bóc.
Giếng 200 tuổi
Tầm giữa năm 2012, trong một lần họp thôn, ông Trần Dự (63 tuổi, ở khu dân cư số 3, thôn Đông, xã An Hải), người đang nắm giữ gia phả họ Trần cũng như giấy tờ và trông coi chùa Hang, có nói về cái giếng nước trong vườn sau nhà. Thoạt nhìn, nó vẫn giống như bao cái giếng sinh hoạt của người dân trên đảo, nhưng theo ông Dự thì nó khoảng 200 tuổi và chứa đựng nhiều chuyện khó lý giải, có liên quan đến chùa Hang.
 
Giếng nước được cho là có liên quan đến chùa Hang - Ảnh: L.X.T
Thật ra, chuyện về cái giếng thì những người có tuổi sống quanh đó đều biết. Sau vài chục năm im lìm, nay được khơi lại nên có nhiều người quan tâm. Ông Dự cho hay mạch nước của giếng không chảy từ các phía mà phun từ dưới đất lên. Theo quan sát, thành giếng cao khoảng 0,5 m, đường kính khoảng 1 m, chiều cao của giếng tính từ đáy lên mặt đất khoảng 5 m. Phần chứa nước của giếng có hai lớp: lớp ở trên là san hô, đáy là cát. Nơi giao nhau giữa lớp san hô và đất cát trước kia ăn sâu vào xung quanh tạo thành bồn. 
Ông Dự kể: “Lúc bé, khi mực nước thấp hơn điểm giao nhau đó, thỉnh thoảng chúng tôi hay trèo xuống và chui vào bồn để chơi. Nghe cha tôi kể trước kia nó rất rộng, chứa được cả trăm người. Bồn tuy rộng nhưng người lớn phải khom người lại mới chui vô được, bồn mở rộng không đồng đều, chủ yếu là về phía tây”. Dựa vào gia phả của dòng họ cũng như những lời kể của cha ông, ông Dự cho rằng sở dĩ bồn giếng mở rộng về phía tây là có liên quan đến chùa Hang (phía tây nhà ông là chùa Hang).
Giả thuyết ông Dự đưa ra và cho rằng có xác suất “đúng” nhất là: Chùa Hang do các bậc tiền bối của họ Trần lập nên. Xưa kia, vì đường đến chùa vô cùng khó khăn nên mới đào đường hầm thông với chùa Hang, điểm kết thúc của đường hầm chính cái hang mà dân hay gọi là “đường xuống âm phủ”. Bên cạnh ý kiến này, ông Dự còn cho rằng đây cũng có thể là hầm mà xưa kia, thanh niên trong làng không muốn bị giặc bắt đi lính nên đào để trốn.
Lần ông Dự xuống giếng gần đây nhất là khoảng 50 năm và bồn giếng bắt đầu bị thu hẹp, “cửa” vào bồn cũng bị bồi lấp. Ông cho biết cái giếng này trước đây thường xảy ra nhiều sự việc khó hiểu. Chẳng hạng như đồ đạc, thậm chí là heo, gà bị rớt xuống (khi ấy chưa xây thành giếng) nhưng tìm không ra. Vài hôm sau thì thấy đồ đạc, nghe tiếng heo gà kêu mới bắc thang xuống mang lên. 
Ông Phạm Hoàng Linh, Phó chủ tịch UBND H.Lý Sơn, cho biết có nghe những lời đồn đại về cái giếng “lạ” ở nhà ông Dự. “Tuy nhiên, hiện chúng tôi vẫn chưa có bất cứ cuộc điều tra, tìm hiểu gì về cái giếng này. Không loại trừ nguyên nhân là do nằm ở vùng đất nhiều “lồng phổng” nên giếng nước đó mới có đặc điểm như thế. Cách đây không lâu, khi xây dựng trường mầm non ở xã An Hải, khi đào móng bên thi công cũng gặp nhiều chỗ đất “lồng phổng” như thế và họ buộc phải đổ đất xuống để bít lại trước khi xây móng”, ông Linh cho hay.
Lê Xuân Thọ

Kho báu bị yểm bùa ở Lý Sơn

Những dấu tích dù đã mai một ít nhiều theo thời gian, nhưng chuyện về kho báu bị yểm bùa của người Hời vẫn còn như mới trong tâm trí nhiều bậc cao niên ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi).

 Núi hòn Tươi, nơi được cho là có nhiều cua vàng - Ảnh: Lê Xuân Thọ
Núi hòn Tươi, nơi được cho là có nhiều cua vàng - Ảnh: Lê Xuân Thọ

Kho báu chôn cùng trinh nữ
Theo tài liệu của họ Bùi ở đảo Lý Sơn, vào năm Ất Tỵ (1545) niên hiệu Nguyên Hòa thứ 13, Bắc quân đô đốc Bùi Tá Hán theo phò Lê diệt Mạc với sứ mệnh vỗ yên biên trấn Quảng Nam. Ông nhận thấy để lấy được Quảng Nam từ tay quân Mạc chỉ có một con đường là chiếm đảo Lý Sơn trước để lập căn cứ, làm bàn đạp. Việc đạt thành, Bùi Tá Hán cho dân ra Lý Sơn sinh sống. Từ đó, người Hời (tức người Chăm) ở đảo dần dần bỏ vào đất liền.
Thời ấy, Lý Sơn có tên là cù lao Ré, do tập quán sinh sống và điều kiện làm ăn mà chia thành hai vùng, nay là hai xã An Vĩnh và An Hải. Xã An Hải do có điều kiện thuận lợi hơn nên người Hời tập trung nhiều ở đó, điều này được thể hiện rõ qua các di tích còn đến bây giờ, cũng như một số kết quả khảo sát, nghiên cứu từ các nhà khảo cổ học. Hơn nữa, trong số các “truyền kỳ” về kho báu của người Hời trên đảo Lý Sơn, thì xã An Hải có nhiều câu chuyện và rõ nét hơn cả. Dân gian lưu truyền rằng người Hời có rất nhiều của cải, nhất là vàng. Khi rời đảo để vào đất liền, họ không thể mang hết tài sản theo nên để lại trên đảo. Tránh bị trộm mất, người Hời đã yểm bùa số vàng này.
Ông Ngô Văn Tùy (55 tuổi, ở xã An Hải), người được nghe khá nhiều chuyện này, kể lại những câu chuyện đã thành giai thoại, hư hư thực thực: “Trước khi người Hời rời đảo, toàn bộ số vàng đều được họ hóa phép. Để làm phép, họ chôn theo một trinh nữ vừa tròn 18 tuổi, tay trinh nữ này cầm một con dao nhỏ. Sau đó làm dấu bằng cách trồng một cây da (còn gọi là cây sợp). Một điều khá đặc biệt là, cây da này được tính toán rất kỹ, để mấy chục năm sau, khi trở lại, họ chỉ việc đo bóng cây vào một khung giờ đã tiên liệu rồi đào ngay vị trí đó là đúng nơi cất giấu vàng”.
Cũng theo ông Tùy, người dân trên đảo dù biết khu vực cất giấu vàng nhưng không thể nào tìm được. Họ đồn nhau rằng nhiều người cố đốn hạ những cây da làm dấu để tìm vàng thì thấy từ vết thương của cây chảy ra máu. Còn những kẻ động tay, động chân chắc chắn sẽ bị bệnh tật hoặc bất đắc kỳ tử. Ông Tùy cho biết khoảng 15 năm trở về trước, thỉnh thoảng thấy người Hời ra đảo trong vai người bán thuốc dạo. Sau khi họ về lại đất liền, thì có một vài cây da bị chết khô không rõ nguyên nhân. “Chúng tôi nghi rằng họ ra đảo lấy lại tài sản của mình, đó là nơi các cây da bị chết”, ông Tùy nghi hoặc.
Bắt gà vàng
Trong dân gian Lý Sơn giờ vẫn còn lưu truyền những câu chuyện được thêu dệt ly kỳ. Chẳng hạn, số vàng được yểm, trong thời gian chờ chủ nhân đến lấy lại, hóa thành nhiều con vật, chủ yếu là cua vàng và gà vàng... Cua vàng xuất hiện nhiều tại xã An Vĩnh, ở những gò đá, mồ cũ và nhiều nhất là dưới chân núi hòn Tươi, nằm cạnh núi Giếng Tiền. Người ta kháo nhau rằng, muốn bắt được cua vàng phải dùng quần áo màu đen, càng dơ bẩn càng tốt, nhất là quần của phụ nữ vào kỳ kinh nguyệt. Người ta còn đồn rằng, thỉnh thoảng lại thấy ngựa vàng chiều chiều phi nước kiệu từ núi hòn Tươi sang núi Giếng Tiền.
Ông Phạm Thoại Tuyền (63 tuổi, ở thôn Đông, xã An Vĩnh), người được xem là “nhà Lý Sơn học” của đảo Lý Sơn, xác nhận những chuyện trên ông cũng có nghe kể lại và cho rằng, đó là những câu chuyện về kho báu của người Hời. Ly kỳ hơn hết là chuyện bắt gà vàng của người dân thôn Tây (xã An Hải). Điểm nóng của câu chuyện là khu dân cư sống quanh đền thờ Thiên Y A Na, cụ thể là ở giếng nước và miếu Con Bò bên cạnh. Ông Ngô Văn Tùy cho biết hơn 5 năm về trước còn nghe người dân trong vùng nói thấy gà vàng xuất hiện. Đó là một đàn gà gồm 1 mẹ và 5 con, sau này, một con gà con đã bị bắt. Gà vàng thường xuất hiện từ 0 đến 4 giờ, khi theo đàn, lúc riêng lẻ. Khi thấy người, gà vàng vẫn thong thả kiếm ăn, đến khi người lại gần thì chạy biến mất.
Miếu Con Bò nay chỉ còn một đống đổ nát - Ảnh: Lê Xuân Thọ
Miếu Con Bò nay chỉ còn một đống đổ nát - Ảnh: Lê Xuân Thọ
“Tuy gà vàng nhìn rất sáng nhưng người mắt yếu lại không thể nhìn thấy, đấy là một đốm sáng vàng và có hình dạng rất giống gà ta, khi gà di chuyển làm sáng cả một vùng. Nhiều người đã bỏ nhiều công sức để theo dõi, vây bắt gà vàng nhưng đến nay chỉ có một người thành công. Đó là một người đàn ông tên Thu, quê ở Bình Sơn (Quảng Ngãi) ra đảo công tác”, ông Tùy kể như thật.
Theo ông Tùy, nghe kể rằng khi được gà vàng thì ông Thu nhanh chóng bỏ về quê sinh sống, gia đình khá lên từ đấy. Nhưng có một lần, chiếc xe chở vải (ông Thu buôn bán vải) bị bốc cháy, ông may mắn thoát chết, còn toàn bộ xe vải bị cháy rụi. Lúc này ông Thu mới chợt nhớ tới “lời hứa” của mình nên đã tức tốc ra lại đảo Lý Sơn, mua một con heo để cúng. Từ đó ông làm ăn dần ổn định và khấm khá trở lại, tiếc là không còn ai biết rõ địa chỉ hiện tại của ông Thu.

Bắt được gà vàng là chuyện thật ?
Kỳ lạ là khi trao đổi với chúng tôi về chuyện gà vàng, ông Nguyễn Dự, Chủ tịch HĐND xã An Hải, nói như đinh đóng cột: “Câu chuyện gà vàng xuất hiện, rồi người ta rình bắt gà vàng là có thật”. Ông Dự cũng khẳng định rằng chuyện ông Thu bắt được gà vàng là có thật.
Lê Xuân Thọ

Hổ trắng và đôi rắn khổng lồ ở thành Thọ An

Ở thôn Thọ An, xã Bình An, H.Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi hiện còn một cổng vòm rêu phong che phủ. Rất ít người biết đó là cổng thành Thọ An thuộc căn cứ Tuyền Tung một thời của nghĩa quân Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân trong phong trào Cần Vương.

Căn cứ Tuyền Tung

Cổng thành Thọ An - Ảnh: Phạm Anh 
Theo nhà nghiên cứu Lê Hồng Khánh, căn cứ Tuyền Tung được xây dựng từ năm 1870 do đích thân tú tài Nguyễn Tự Tân (quê ở xã Bình Phước, H.Bình Sơn, Quảng Ngãi) xây dựng.
Lợi dụng chính sách khai hoang lập điền của triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Tự Tân chiêu mộ nông dân yêu nước lên vùng Tuyền Tung (thôn Thọ An, xã Bình An, H.Bình Sơn bây giờ) lập căn cứ địa, luyện tập hương binh và chuẩn bị lương thực chiến đấu lâu dài. Thành Thọ An ở căn cứ Tuyền Tung lập năm 1870, vốn có địa thế hiểm trở vì được núi rừng bao bọc bốn bên, lại có đường thông với bắc, nam và phía tây. Thành được xây lên bằng đá cuội tròn và đá ong. Bên ngoài có cổng thành, bên trong có sân rộng, nhà hội họp bàn việc. Cổng thành xây dựng theo lối vòm, cao khoảng 6 m, trên đình vòm cổng đầu hành lang có 4 chốt gỗ tạo thành hai lớp cửa bên trong và bên ngoài.
Thời gian này, Nguyễn Tự Tân tổ chức khai thác quặng sắt ở vùng Lò Thổi (xã Bình Khương, H.Bình Sơn) để rèn đúc vũ khí mang đi giấu trong núi. Bấy giờ nghĩa quân cũng liên lạc với các vùng miền núi trong tỉnh Quảng Ngãi và nhân sĩ các tỉnh Quảng Nam, Bình Định để phối hợp hành động.
Ngày 13.7.1885, Chánh quản Lê Trung Đình sau khi tiếp chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi đã tập hợp hương binh và kêu gọi nhân sĩ chống Pháp. Nghĩa quân cũng yêu cầu Bố chánh Quảng Ngãi là Lê Duy Thụy và quyền Án sát Nguyễn Văn Dụ cung cấp vũ khí chống Pháp nhưng bị từ chối. Do bị từ chối nên ngay hôm ấy, 3.000 hương binh từ thành Thọ An chia làm ba mũi tấn công thành Quảng Ngãi, bắt quan lại, tịch thu ấn tín, kêu gọi hưởng ứng phong trào Cần Vương kháng Pháp.
Khi chiếm được thành hai ngày thì đến ngày 16.7.1885, quyền Tiễu phủ sứ Sơn phòng Nghĩa - Định là Nguyễn Thân cùng Đề đốc Đinh Hội đem quân đánh phá. Phó tướng Nguyễn Tự Tân chết trận, chánh tướng Lê Trung Đình bị bắt và bị chém ở cửa bắc thành Quảng Ngãi vào ngày 23.7.1885. Sau đó, Nguyễn Bá Loan mang quân về lại thành Thọ An tại căn cứ Tuyền Tung tiếp tục kháng Pháp.
Chuyện bạch hổ và đôi rắn khổng lồ
Đến thành Thọ An, căn cứ Tuyền Tung bây giờ chỉ còn cổng thành đã rêu phong. Phía trên cổng thành, có cây đa che mọc phủ lên, còn nhìn từ dưới cổng thành lên trên, vòm cổng đã bị mưa nắng phá hỏng một lổ hổng lớn. Đi vào bên trong, nhà hội họp (dân trong vùng gọi là đình) không còn nữa, chỉ có nền đá ong viền xung quanh móng ngôi nhà hội họp cũ này.
Cụ Hồ Công Biểu (trên 70 tuổi, nhà ở gần thành) cho biết đình đã bị phá từ thời bom đạn chống Mỹ. Sau đó do mưa gió không ai tu bổ đã đổ sập luôn. Người trong vùng có xin làm lại đình để thờ phụng nhưng “quý ngài” không cho. Hỏi “quý ngài” là ai, cụ Biểu kể: “Thành Thọ An linh lắm, ai đi qua phải cúi đầu. Ngày trước, đàn bà con gái không ai dám qua đây. Còn đàn ông qua đây phải búi tóc gọn gàng”. Cụ Biểu kể tiếp, ngày trước có ông Đồng Thoại cưỡi ngựa nghênh ngang qua cổng thành mà không xuống ngựa, thế là cả người và ngựa bị hất văng xuống hồ sen (vốn là hào thành), ông Thoại hộc máu chết tại chỗ.
Thế nhưng chuyện này vẫn chưa kỳ bí bằng những chuyện mà dân làng Thọ An từng nghe kể. Đó là sau khi nghĩa quân thất bại, thành Thọ An thành hoang phế, người dân ở đây vẫn nhớ ngày nhớ tháng đến cúng tế, thắp hương tại đình (nhà hội họp của nghĩa quân). Trong lễ tế này, nhất định phải có đầu heo lớn để lại, không ai được mang về. Thế nhưng, cứ sau một đêm là đầu heo mất đi, xung quanh đó có rất nhiều dấu chân hổ. Năm nào không cúng đầu heo, năm đó nhất định dân làng gặp nhiều vụ việc bất ổn: khi thì đi rừng bị chết, gió bão làm hư hại, gia súc nuôi chết bất đắc kỳ tử. Thế rồi có một đêm, lão ông coi đình tên Oánh nằm mơ thấy một con hổ trắng đến bảo: Ta là bạch hổ coi ngó xứ này. Nay ta giao giấy tờ trông coi đình lại cho ông rồi từ nay trở đi vào núi tu hành, không coi đình và xứ này nữa. Từ đó dân làng cúng đầu heo không bị mất như ngày trước.
Chuyện kể nữa là ngoài bạch hổ thì ngày nào cúng tế ở đình cũng có hai con rắn to như cột nhà, có mồng đỏ cao hai gang tay, về nằm khoanh tròn trên hai cái bàn lớn ở bàn thờ trên đình. Có người cho đó là hai con rồng, bởi thân rắn màu đen tuyền, phát ánh sáng, đầu ngóng cao, hơi thở phì phò trông rất uy nghi. Thời gian đầu ai cũng sợ, có điều hai con rắn khổng lồ này không hề hại ai, không hề xâm phạm đến đồ cúng tế nên dần dần ai cũng quen. Khi làng cúng xong, ăn uống xong, hai con rắn khổng lồ lặng lẽ bò đi đâu mất. Đến khi mái đình ở đây sụp đổ, hai con rắn không về nữa. Tuy nhiên, ở trước thành Thọ An khoảng vài cây số, có một cái ao lớn tên Vũng Vàng. Ao này quanh năm không bao giờ cạn, ai bước chân đến đều thấy khí lạnh tỏa ra mát rượi. Phía dưới ao có một phiến đá lớn, trưa nào cũng có một con rắn khổng lồ có mồng đỏ to như con rắn ở đình đến khoanh tròn.
Cụ Biểu kể, có lần thấy đám cỏ thia bị rạp xuống như ai kéo khúc gỗ nặng đi qua. Có lần, người ta đi vào núi chặt củi nghe tiếng khò khè như ai đặt máy cưa cái gì. Tất cả những hiện tượng kiểu này, dân làng ở đây cho đó là rắn khổng lồ đang ngủ.

“Xung quanh lịch sử luôn có những giai thoại, huyền thoại đi kèm. Có khi chính cái đó mới giữ được những gì xưa cổ, người trong vùng không dám phá đi, để cổng thành Thọ An còn tồn tại đến bây giờ” - nhà nghiên cứu Lê Hồng Khánh.
Phạm Anh - Lê Xuân Thọ

Chuyện kỳ lạ ở chùa Thình Thình

Trên đỉnh núi Thình Thình có ngôi chùa cùng tên. Gần một thế kỷ từ ngày khởi dựng đến nay, chùa vẫn “cô đơn” với những điều kỳ lạ… 


 Những di tích kỳ bí - Kỳ 16: Chuyện kỳ lạ ở chùa Thình Thình
Tam quan chùa Thình Thình - Ảnh: Lê Xuân Thọ 
Hóa thân thành ngọn đuốc hồng
Thật ra ngôi chùa này có tên là Viên Giác tự, tên chữ là Thanh Thanh, do nằm trên núi Thình Thình nên dân quen gọi như thế. Vị trí của chùa nay thuộc thôn Diên Lộc, xã Bình Tân, H.Bình Sơn (Quảng Ngãi). Nằm trong khuôn viên rộng chừng 500 m2, bao gồm: cổng tam quan, sân chùa, chánh điện, nhà đông - tây, nhà khách và khu mộ tháp, chùa như được bao bọc bởi những hàng cổ thụ xung quanh và chìm giữa bạt ngàn bạch đàn. Đỉnh núi như một cao nguyên, bốn bề là một màu xanh thẫm đến u tịch.
Chùa được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh vào năm 1993. Hòa thượng Thích Vĩnh Trường (103 tuổi), trụ trì chùa Viên Giác, cho biết vào khoảng năm 1920, ông tổ thứ sáu của chùa Thiên Ấn (ở H.Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) là hòa thượng Tăng Cang Diệu Quang khi đến thấy nơi đây yên tịnh nên đã lập chùa ẩn tu. “Ban đầu chùa chỉ là một túp lều nhỏ nằm trên đỉnh núi. Sau 3 lần phải xây lại chùa do bị bão quật và hỏa hoạn, chùa mới có vị trí và hình hài như ngày hôm nay”, trụ trì đời thứ 3 của chùa Viên Giác cho hay.
Do chùa nằm trên đỉnh núi, cách xa dân cư, đường sá nhiều trắc trở nên rất ít người cúng viếng, chỉ khi nào có ngày đại lễ thì dân chúng, phật tử gần xa mới về. Số sư thường trực ở chùa chưa khi nào quá 5 người. Hòa thượng Thích Vĩnh Trường cho biết, những đời trước đây chỉ một thầy một trò ẩn tu trên đỉnh núi. “Khi tôi lên làm trụ trì thì có đến 4 thầy trò. Sau đó một người ngã bệnh mất, một người không chịu nổi sự khổ cực nên bỏ đi. Nay chỉ còn tôi và một đệ tử 53 tuổi sớm hôm niệm kinh. Vì vậy người ta hay đùa rằng, đây là ngôi chùa vắng khói hương”, hòa thượng Thích Vĩnh Trường kể.
Vị trụ trì cũng cho hay, ngôi chùa này từng là nơi lánh giặc của bộ đội thời kháng chiến. Xung quanh đỉnh núi đều có hầm quân sự, nhưng nay đã bị lấp bởi thời gian dâu bể. Trong chùa còn thờ tự đại đức Thích Hạnh Đức, người đã noi gương hòa thượng Thích Quảng Đức, hóa thân trai trẻ thành ngọn đuốc hồng ngay sân chùa Tỉnh hội Quảng Ngãi, nhằm chống lại sự đàn áp của chính quyền Sài Gòn. Khi ấy ngài mới 19 tuổi, và sau cuộc tự thiêu ấy, ngài được Giáo hội Phật giáo Việt Nam phong Thánh tử đạo đầu tiên tại Quảng Ngãi.
Chuyện lạ quanh chùa
Cần phải lưu ý rằng, Thình Thình cũng không phải là cái tên chính của núi mà chùa tọa lạc. Nó vốn là dãy Thanh Thanh Sơn, còn tên Thình Thình là cách gọi dân dã của người dân trong vùng. Đỉnh Thanh Thanh Sơn có độ cao khoảng 170 m so với mực nước biển, toàn dãy núi có cấu tạo như hình thể một con cá sấu. Do cấu tạo của vùng đất trên đỉnh núi, nên khi bước chân nghe tiếng “ình ình”, sau đọc chệch thành “thình thình”, và người dân địa phương lấy đó làm tên gọi chỉ ngọn núi thuộc dãy Thanh Thanh Sơn.
Nói về thanh âm “thình thình”, hòa thượng Thích Vĩnh Trường, kể: “Tương truyền ngày xưa, có vị thiền sư lập am tu trên núi. Hơn mười năm sau, ngài chứng quả và phát nguyện, khi viên tịch không cần nhập tháp mà chôn vào lòng núi. Nằm trong lòng núi, ngài dùng thần thông diệu pháp để phát hiện kẻ ác người thiện. Nếu là người ăn ở hiền lành, bước chân trên núi của họ sẽ có âm thanh êm ả. Còn đó là kẻ dữ, ăn ở thất đức thì mỗi bước chân sẽ có tiếng “ình ình” kiểu gầm gừ của loài ác thú. Thanh âm này sẽ khiến họ đinh tai nhức óc, nhiều khi ngã lăn giãy giụa. Sau này đọc thành thình thình”.
Ngày nay dân gian cũng còn lưu truyền câu:
Núi Thình Thình, chùa cũng Thình Thình
Ai lên tới đó cho mình hỏi thăm
Vì đâu nên tiếng nên tăm
Để cho miếng đất ngàn năm thình thình.
Theo kết quả của một số nhà nghiên cứu, vào những năm cuối thế kỷ 19, sở dĩ vùng đất này phát ra âm thanh như thế là do lòng đất cấu tạo có nhiều chỗ hổng. Hòa thượng Vĩnh Trường cho biết, chỉ có khoảnh đất từ cổng tam quan chạy về phía tay phải khoảng 20 m mới nghe tiếng thình thình khi bước chân. “Hồi xây chùa, nhất là khi xây cổng tam quan, lúc đào móng gặp rất nhiều lỗ hổng nên phải đổ đất xuống và đầm cho chặt rồi mới xây. Tiếc là con lên đúng ngày mưa nên không thể nghe được những âm thanh ấy”, hòa thượng nói với tôi.
Chùa Thình Thình còn gắn với câu chuyện huyền bí về thần núi. Hòa thượng Vĩnh Trường lên chùa Thình Thình từ khi còn rất nhỏ, đến khoảng năm 18 - 19 tuổi thì ông chuyển vào TP.HCM, sau về Khánh Hòa sinh sống. Một lần trở về nơi cửa thiền xưa, thấy không ai trông coi chùa nên ông quay về làm trụ trì theo yêu cầu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Khi chùa có sư, dân chúng ít nhiều đến viếng chùa. Họ kể cho vị trụ trì nghe về những chuyện mà họ cho rằng liên quan đến thần núi.
Dân chúng kể rằng, nhiều lần lên núi hái củi, thường thấy một vị thần râu tóc dài và bạc phơ chống gậy đi lại trên núi, nghe tiếng động là ngài biến mất. Nếu chỉ là hái rau quả, chặt cành, hay chặt những cây đã chết khô về làm củi thì mọi việc diễn ra hết sức bình thường. Tuy nhiên, những ai làm việc mang tính chất phá hoại, dù có cố gắng đến mấy cũng không thành. Đã có nhiều người đến vùng này săn bắn, dưới chân núi thì được vài con thú. Nhưng khi lên đỉnh, nhất là khu vực quanh chùa, thì không thể nào bắn hoặc bắt được chúng dù thấy rất gần ngay trước mắt. Họ cho rằng những con thú này được bảo vệ bởi vị thần kia.
“Đó là chuyện của ngày xưa, cái thời mà người ta có thể thêu dệt nên chuyện thần thánh. Tuy vậy, ngày nay vẫn còn tồn tại một hiện thực khó hiểu: nhiều người bẫy chim cu dưới chân núi hay vùng khác thì được. Nhưng khi đặt bẫy ở trên này thì tuyệt nhiên không có con chim nào mắc bẫy, dù chúng lân la đến chén mồi”, hòa thượng Thích Vĩnh Trường kết thúc câu chuyện một trong hoài nghi.
Lê Xuân Thọ

Chùa Hang và những truyền thuyết tâm linh

Chùa Hang là tên dân gian thường gọi của Thiên Sanh Thạch tự (còn có tên chữ là Thạch Cốc), nằm ở lưng chừng núi Chùa thuộc thôn Hội Khánh, xã Mỹ Hòa, H.Phù Mỹ (Bình Định). Tương truyền ở đó có hai con đường để lên trời và xuống âm phủ.

'Mái che' của chùa Hang - d
'Mái che' của chùa Hang - Ảnh: Lê Xuân Thọ 

Núi Chùa có tên chữ là Lý Thạch, còn được gọi là La Hơi. Tương truyền, khi trời nắng hạn, nếu nghe trên núi có tiếng ồ ồ như xay lúa thì trời sẽ liền đổ mưa.
Truyền kỳ chùa Hang
Theo trụ trì chùa Thiên Sanh, đại đức Thích Nhuận Tín, thì chùa được khai sơn vào năm 1613 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có bất cứ tư liệu lịch sử nào đề cập chính xác điều này. Một vài tài liệu khác thì cho rằng, sau khi chùa Thập Tháp Di Đà (ở TX.An Nhơn, Bình Định) xây dựng thì đạo Phật phát triển. Nên vào cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, có người đến hang đá ở thôn Hội Khánh kiến tạo thành chùa để tu hành, gọi là chùa Hang. Ban đầu chùa còn hoang sơ, bày biện đơn giản, mãi đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và về sau thì chùa mới được tu chỉnh quy mô. Hiện có hai truyền thuyết về chùa Hang.
Lúc bấy giờ khắp vùng Phù Mỹ đã có vài ngôi chùa, nhưng không có sư trụ trì ở chùa Hang. Hay tin có ông Phan Chọn ở huyện mình vào tu hành tại chùa Trà Cang (ở Bình Thuận), dân bèn bàn nhau vào mời về. Hòa thượng trụ trì chùa Trà Cang đã đồng ý cho sư Trà Ban (tức ông Phan Chọn, có tài liệu ghi là Trà Bang) về trụ trì chùa Hang, đó là vào năm 1896. Ngoài ra, khi trở về, sư Trà Ban còn xây dựng nhiều chùa khác ở trong và các huyện lân cận. Tương truyền, do tu hành đắc đạo nên sư Trà Ban đi nhanh như bay và nhẹ tựa gió mây. Ông lại giỏi y thuật, thông kinh chú, đã thu thập thông tin, cung cấp cho nghĩa quân Trần Cao Vân thời kỳ Trần Cao Vân lấy vùng núi Bình Định, Phú Yên làm căn cứ chống Pháp.
Trong sách Nhân vật Bình Định của Lộc Xuyên Đặng Quý Địch, phần viết về nhân vật Võ Trứ, có đề cập một chuyện lạ xảy ra ở Bình Định. Khi ấy là năm Giáp Ngọ (1894), H.Phù Cát và nhiều nơi ở Bình Định dịch bệnh hoành hành, nhiều làng bị rào cách ly, có nơi dân chúng đốt làng di tản nơi khác. Người chết không kịp chôn, khắp nơi đều bao trùm bởi khí tử và dịch bệnh. Lúc này xuất hiện vị lão tăng, do tu ở chùa Hang nên gọi là thầy chùa Hang, vài hôm sau thì thấy Võ Trứ cũng có mặt. Hai người phát thuốc cho dân chữa bệnh, thuốc là tấm giấy màu vàng có in 5 hình Bồ tát Quan Âm, gọi là “Ngũ công Quan âm”. Ban đầu dân còn nghi ngờ, sau thấy hiệu nghiệm nên truyền tai nhau rất nhanh, đến độ quan tri huyện Phù Cát sợ thầy chùa Hang tụ hội khởi loạn nên ra lệnh cấm người đến xin thuốc, đồng thời tầm nã gắt gao thầy chùa Hang. Sau không rõ vị lão tăng mất khi nào và ở đâu, nhưng để nhớ ơn, dân tiếp tục thờ cúng ở chùa Hang.
Ngoài ra, có dư luận cho rằng có người đào trộm trước chùa thì thấy một tượng Phật Di Đà, có đề chữ Huyền Trân công chúa tặng. Dựa vào đây, người ta cho rằng chùa Hang có từ đời Trần.
Bí ẩn trong lòng chùa
Muốn lên được chùa Hang phải đi theo dốc đá quanh co, đi mãi, khi nào gặp một tảng đá to thì đó chính là “mái che” của chùa. Cạnh bên trái “mái che” được bày biện mấy ghế đá, bên phải các ghế đá này có một lối đi nhỏ để vào hang. Muốn qua lối này phải khom người xuống, lúc này đã cảm nhận được cái lạnh của hang đá. Lại theo vài ba bậc đá nữa, sẽ thấy bàn thờ các Phật.
Chùa Hang tuy nhỏ nhưng đủ cho hơn chục người đi đứng thoải mái. Về chùa Hang, có ông Đặng Như Dước là người bỏ ra nhiều thời gian và công sức tìm hiểu, sưu tầm những chuyện truyền thuyết kỳ bí quanh ngôi chùa này. Những tài liệu hiện có, đang lưu giữ tại chùa cũng như Ban Văn hóa xã Mỹ Hòa đều là do ông Dước cung cấp. Ông trước đây là cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên là Bí thư Đảng ủy xã Mỹ Hòa. Ở tuổi 95 nhưng ông chỉ hơi nặng tai, còn đầu óc rất minh mẫn, nhớ kỹ càng lịch sử và những truyền thuyết của chùa Hang.
Người ta kể rằng ở chùa Hang có hai đường đi, một lên trời và một xuống âm phủ. Phía trên bàn thờ của chùa Hang, chệch về phía tay phải còn có một lỗ “thông hơi”. Lỗ “thông hơi” này chính là đường lên trời. Trước đây, phía dưới “mái che” của chùa Hang (không rõ về phía nào) có một đường hầm chạy xuống, người ta gọi là đường xuống âm phủ. Tương truyền khi còn sống, một trụ trì của chùa là sư Nguyên Lượng có đi thử, càng đi càng thấy sâu thăm thẳm, khó đi nên đành quay trở lại.
Lại có lời kể, một người nọ, vì muốn kiểm chứng độ sâu của “đường xuống âm phủ”, nên gánh theo hai thúng nến để đốt lần soi đường. Nến gần hết mà hang vẫn còn xa vời vợi nên đành quay trở về. Có người thả một quả bưởi được khắc dấu xuống hang, một thời gian sau thì có người tận cửa biển Đề Gi cách chùa hơn 20 km nhặt được. Từ ấy dân gian đồn rằng cái hang này ăn thông với biển. Trải qua chiến tranh, “đường xuống âm phủ” đã bị vùi lấp.

Lê Xuân Thọ

Bí ẩn núi Tam Tòa

Núi Tam Tòa (P.Hải Cảng, TP.Quy Nhơn, Bình Định) có nhiều di tích nhưng ít người biết đến như đền thờ Uy Minh vương, tường lũy cổ bằng đá và nhiều câu chuyện hoang đường về sự linh thiêng.

 Tượng đài Trần Hưng Đạo trên núi Tam Tòa - Ảnh: Hoàng Trọng
Tượng đài Trần Hưng Đạo trên núi Tam Tòa - Ảnh: Hoàng Trọng
Tường lũy phòng thủ bờ biển
Tường lũy trên đỉnh núi Tam Tòa được xây dựng bằng những viên đá xếp chồng lên nhau, điểm bắt đầu từ tượng đài Trần Hưng Đạo (ở khu vực Hải Minh, P.Hải Cảng), dài khoảng 10 km. Qua thời gian, lũy đá này bị hư hỏng nhiều đoạn, nằm lẩn khuất trong bụi rậm, những đoạn lộ thiên còn nguyên vẹn có chiều cao từ 0,6 - 1,2 m, bề mặt rộng gần 1 m.
Theo TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định, chính sử triều Nguyễn có nhắc đến chuyện năm 1840 vua Minh Mạng cho xây dựng pháo đài Hổ Cơ (có sách viết là Hổ Ky) ở cửa biển Thị Nại, nên có thể tường lũy trên núi Tam Tòa có từ thời gian này trở về trước. Pháo đài Hổ Cơ xây hình tròn, tường bằng đá, đặt nhiều súng thần công. Gần đó là cột cờ, kho thuốc súng và một trại lính. Đối diện pháo đài Hổ Cơ, bên kia đầm Thị Nại, triều Nguyễn cũng xây dựng một đồn nhỏ tại Bãi Nhạn (ngày nay nằm gần khu vực cảng Quy Nhơn) để khống chế, giám sát được toàn bộ tàu thuyền ra vào cửa biển Thị Nại.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng lũy đá này có thể được xây dựng từ các triều đại trước nhà Nguyễn. Thời Tây Sơn, Thị Nại vừa là thương cảng vừa là quân cảng, có vị trí chiến lược quan trọng nên phải xây dựng hệ thống đồn lũy, pháo đài án ngữ cửa biển, đặt nhiều súng đại bác để ngăn không cho thuyền quân giặc ngoài biển tiến vào kinh thành Hoàng Đế.
Trong sách Đại Nam nhất thống chí cũng có nhắc đến chi tiết năm 1800, hai vị tướng nhà Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem quân đánh chiếm lại thành Hoàng Đế đã bị quân Nguyễn chiếm đóng (từ năm 1799). Tướng Võ Văn Dũng dùng 3 thuyền lớn và hơn trăm thuyền chắn ngang cửa biển, lại lập đồn, đặt đại bác ở Bãi Nhạn và núi Tam Tòa để đánh nhau với quân Nguyễn.
 Bệ con cóc trước cổng di tích núi Tam Tòa - Ảnh: Hoàng Trọng
Bệ con cóc trước cổng di tích núi Tam Tòa - Ảnh: Hoàng Trọng
Tượng đài Trần Hưng Đạo đặt ở đầu tường lũy cổ này, do Hội thánh Trần Bình Định xây dựng vào năm 1972 và được UBND tỉnh Bình Định xếp hạng di tích vào năm 2007. Tượng tạc Trần Hưng Đạo trong tư thế chỉ huy trên thuyền rồng ở trận Bạch Đằng giang, với trang phục áo giáp, mũ sắt, chân trái đứng trụ, chân phải gác lên mạn thuyền, tay trái chạm kiếm, tay phải chỉ thẳng về phía trước.
Dấu vết đền cổ ngàn năm
Dưới chân núi Tam Tòa còn có phế tích đền thờ cổ nằm trong làng chài Hải Minh được cho là nơi thờ Uy Minh vương Lý Nhật Quang. Hiện di tích này còn lại một cổng tam quan, phía sau cổng còn có dấu vết tường xây bằng vôi và đá ong, gạch... Trước cổng có một bệ thờ hình con cóc rất lạ nhưng chưa được các cơ quan chức năng nghiên cứu, giải mã.
Theo cụ Nguyễn Đông (82 tuổi, ở làng Hải Minh), người dân địa phương không rõ điện thờ Tam Tòa được xây dựng từ khi nào, thường hay gọi đó là Dinh Bà và tổ chức thờ cúng thường xuyên. “Từ xưa đến giờ, khu vực Dinh Bà là nơi linh thiêng, ít người dám mạo phạm, lui tới, nhất là ban đêm. Cùng thời với tôi, hồi còn nhỏ, có người lén phóng uế lên ông cóc này rồi về nhà bị đau, thuốc thang mãi không hết. Gia đình hỏi mới biết là ông ta gây chuyện mạo phạm tại Dinh Bà nên sắm lễ vật cầu xin và sau đó cũng khỏi bệnh”, cụ Đông kể lại một giai thoại nhuốm màu tâm linh.
Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên có chi tiết tháng 11.1041, vua Lý Thái Tông ban chiếu cho Uy Minh hầu là Nhật Quang (con thứ 8 của Lý Thái Tổ) làm Tri châu Nghệ An. Tháng 8.1044, sau khi đánh thắng Chiêm Thành trở về đến Nghệ An, vua Lý Thái Tông phong Nhật Quang làm Uy Minh vương. Khi Uy Minh vương mất, dân lập đền thờ ở xã Bạch Đường, H.Nam Đàn, Nghệ An. Theo Đại Nam nhất thống chí, Uy Minh vương từng có công giúp vua Chiêm Thành dẹp nội loạn, khi ông về lại Đại Việt, người Chiêm Thành nhớ công đức bèn lập đền thờ ở núi Tam Tòa... Năm 1470, vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, đóng quân ở cửa biển Thị Nại, cầu đảo thường được ứng nghiệm. Sau khi hạ được thành Đồ Bàn, vua phong cho Uy Minh vương làm Thần núi Tam Tòa.
"Di tích núi Tam Tòa được Bộ VH-TT công nhận Di tích lịch sử vào năm 1988. Tuy nhiên, đền thờ Uy Minh vương có từ thời Chiêm Thành đã mất dấu tích kiến trúc, nền móng còn lại là do nhiều thế hệ người Việt đã trùng tu, sửa chữa. Việc phục dựng lại đền thờ này rất khó, cần có nhiều nghiên cứu kỹ hơn”, TS Đinh Bá Hòa cho biết.

Ngôi mộ cổ bằng đá
Theo cụ Nguyễn Đông, trên đỉnh núi Tam Tòa còn có ngôi mộ cổ xây dựng bằng đá rất lớn và lưu truyền nhiều câu chuyện hoang đường về huyệt mộ này. Con cháu của chủ nhân ngôi mộ sinh sống ở Quy Nhơn vẫn thường xuyên đến cúng tế và có nhiều người đã thành đạt.
Theo chỉ dẫn của cụ Đông, chúng tôi tìm gặp con cháu của chủ nhân ngôi mộ nói trên là ông Ngô Kim Khánh (ở đường Vũ Bão, TP.Quy Nhơn) thì được biết đấy là mộ cụ Ngô San (1853 - 1908), sinh sống ở H.Tuy Phước, Bình Định. Ông Khánh là cháu 5 đời của cụ San. Sinh thời, cụ San giàu có, nhiều ruộng, trâu bò và có cả 2 con voi.
Khi cụ San mất, con cháu đưa cụ đi an táng trên đỉnh núi Tam Tòa bằng voi. Khi đó, mộ chỉ đắp bằng đất nhưng do những người dân sinh sống ở bán đảo Phương Mai mỗi lần đi ngang qua mộ đều đắp thêm lên vài hòn đá nên mộ ngày một lớn dần.
Hoàng Trọng

Truyền thuyết Thiên Thai tự

Nhiều người tin rằng chùa Thiên Tôn (ở khối Hòa Lạc, thị trấn Phú Phong, H.Tây Sơn, Bình Định) ngày xưa có tên là Thiên Thai tự, do vị hoàng thân triều Lý có tên Lý Quốc Hoài dựng nên.


Chùa Thiên Tôn - Ảnh: Hoàng Trọng

Cội nguồn chùa Thiên Tôn
Nhìn từ cầu Phú Phong trên Quốc lộ 19, chùa Thiên Tôn với ngọn bảo tháp cổ kính ẩn hiện dưới chân núi Hội Sơn đầy vẻ huyền bí. Gần đây lại có thông tin chùa này được xây dựng cách đây gần một ngàn năm càng khiến nhiều người thêm chú ý. Theo tư liệu do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Xuân Nhân (nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn Trường đại học Quy Nhơn, hội viên Chi hội Văn nghệ dân gian Bình Định) sưu tầm được, sau khi Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho Trần Cảnh, hoàng thân Lý Quốc Hoài là người văn võ toàn tài, am hiểu Phật pháp phải tìm cách rời Thăng Long vào nước Chiêm Thành để tránh họa diệt thân. Ông cùng thân quyến, bạn hữu giả làm đoàn sư sãi theo dọc Trường Sơn, chống chọi với thú dữ, bệnh tật để vào nam.
Nơi đoàn người do hoàng thân Lý Quốc Hoài dẫn đầu dừng chân là vùng đất Tây Sơn, khi đó là vùng sơn cước đầy chướng khí của vương quốc Chiêm Thành, dân cư thưa thớt, thú dữ rình rập. Lý Quốc Hoài cùng mọi người dựng chùa trên núi Hội Sơn, lấy tên là Thiên Thai tự và khai phá đất đai trồng lương thực để sinh sống. Ông thường xuyên luyện tập võ nghệ và dạy cho cư dân Chiêm Thành trong vùng để rèn luyện thân thể, chống thú dữ, trộm cướp... Biết chuyện, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga có xuất tiền cho các nhà sư Đại Việt xây lại Thiên Thai tự theo lối kiến trúc chữ điền (田).
Khi vùng đất Tây Sơn thuộc về Đại Việt, cư dân người Việt đến sinh sống tại đây đông dần. Thời các chúa Nguyễn cai trị, Thiên Thai tự trở thành nơi đào tạo võ nghệ danh tiếng trong vùng. Nhiều võ sinh ở Thiên Thai tự xuống núi theo phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn. Trong số đó có những danh tướng như: đại đô đốc Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Lê Văn Hưng... Hàng trăm năm trôi qua, Thiên Thai tự ngày xưa bị hư hỏng, được trùng tu, xây dựng lại rất nhiều lần và đổi tên là chùa Thiên Tôn.
Tuy nhiên, hòa thượng Nguyên Đạt tự Bửu Đạo, trụ trì chùa Thiên Tôn hiện nay, cho biết người lập chùa này là có tên Lê Quang Hòa (1873 - 1953), pháp danh là Thanh Kế, hiệu là Huệ Đăng. “Chùa Thiên Tôn tại Bình Định được lập vào năm 1941 bởi Tổ sư Huệ Đăng, còn gọi là Tổ Thiên Thai, văn bia tại tháp tổ của chùa còn ghi lại điều này. Chùa Thiên Tôn không liên quan đến hoàng thân Lý Quốc Hoài và không có tư liệu nào chứng minh là các vị tướng nhà Tây Sơn học võ tại đây. Từ khi thành lập chùa đến nay, tôi là vị trụ trì đời thứ 3”, hòa thượng Nguyên Đạt nói.
Tổ Thiên Thai
Theo hòa thượng Nguyên Đạt, Tổ Thiên Thai Lê Quang Hòa sinh ở làng An Dõng (xã Bình Thành, H.Tây Sơn) trong một gia đình nho giáo. Thời nhỏ, cụ Lê Quang Hòa học cả chữ nho, chữ Pháp và võ nghệ. Ông học rất thông minh nên 7 tuổi vào học trường huyện và sau đó được tuyển vào trường tỉnh. Khi chưa đến 15 tuổi, Lê Quang Hòa tham gia phong trào Cần Vương do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo. Sau khi lãnh tụ Mai Xuân Thưởng bị xử tử, phong trào Cần Vương bị đàn áp dữ dội, Lê Quang Hòa phải trốn vào tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu lấy nghề dạy học mưu sinh. Trong thời gian tha hương ở miền Nam, cụ Hòa vẫn tìm cách liên lạc với các nghĩa quân chống Pháp. Tuy nhiên, các cuộc kháng chiến đều thất bại nên cụ chán nản, xin vào chùa Long Hòa (ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) để tu.
“Năm 1905, sau khi làm lễ an táng cho sư phụ tại chùa Long Hòa, hòa thượng Huệ Đăng vào vùng núi Dinh Cố (ở xã Tam An, H.Long Đất, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) tìm thạch động hoang vắng để tu hành. Ở chân núi có một hang đá lớn nhưng đã có một con cọp ở, hòa thượng Huệ Đăng khấn nguyện thì cọp nhường chỗ. Hòa thượng dọn dẹp hang để tu hành và đặt tên là Thiên Thai động. Hai năm sau, đệ tử và người dân kéo đến Thiên Thai động kính Phật rất đông”, hòa thượng Nguyên Đạt kể.
Từ năm 1908, hòa thượng Huệ Đăng đi vân du hoằng hóa ở nhiều tỉnh Nam bộ, sau đó về hang Mai trên núi Dinh Cố tu hành. Người dân thường xuyên tập trung đông nên tri phủ địa phương nghi ngờ hòa thượng Huệ Đăng tổ chức chống Pháp bèn đem quân đến đuổi đi. Năm 1925, hòa thượng Huệ Đăng lại dẫn tăng chúng lên núi Dinh Cố khai hoang, lập vườn trồng cây ăn trái rồi xây dựng chùa Thiên Thai ở gần thạch động ngày xưa. Năm 1935, hòa thượng Huệ Đăng thành lập hội Thiên Thai Thiền Giáo Tông và xuất bản tờ Bát Nhã Âm để vận động phong trào chấn hưng Phật giáo VN. 
Hòa thượng Nguyên Đạt kể tiếp: Năm 1941, khi đã gần 70 tuổi, hòa thượng Huệ Đăng trở về thăm quê nhà. Quan huyện Bình Khê (nay thuộc H.Tây Sơn) và các nhân sĩ ở Bình Định đã mời hòa thượng ở lại quê để truyền giảng Phật pháp và cụ cho xây dựng chùa Thiên Tôn. Đến năm 1953, hòa thượng Huệ Đăng qua đời tại đây. Bảo tháp của hòa thượng Huệ Đăng được xây dựng sau lưng chùa.

Người diễn nôm các kinh chữ Phạn
“Cuộc đời và tên tuổi hòa thượng Huệ Đăng rất nổi tiếng trong giới Phật giáo. Ông là người diễn Nôm các kinh bằng chữ Phạn mà ngày nay vẫn được các phật tử tụng niệm như: Kinh Vu Lan, Kinh Di Đà, Bát Nhã Tâm Kinh, Tịnh Độ Chánh Tông...”, hòa thượng Nguyên Đạt cho biết.
Hoàng Trọng

 Mộ Bà Vua trong rừng cấm

Nhiều tư liệu khẳng định người nằm dưới mộ Bà Vua ở Gò Thỏ (thôn Vĩnh Long, xã Cát Hanh, H.Phù Cát, Bình Định) là bà Nguyễn Thị Bích, vợ Hoàng đế Quang Trung.


 Những di tích kỳ bí - Kỳ 21: Mộ Bà Vua trong rừng cấm
Ông Thiển bên mộ Bà Vua - Ảnh: Hoàng Trọng
Mộ bà Nguyễn Thị Bích ở Gò Thỏ nằm trong khu đất trồng mì xen lẫn bạch đàn của dòng họ Nguyễn ở thôn Vĩnh Long. Ngôi mộ này trông rất bình thường, thậm chí còn ít bề thế hơn những ngôi mộ xung quanh, trên bia mộ khắc hàng chữ “Phần mộ/Đời thứ 9/Nguyễn Thị Bích/giá vụ/Quang Trung /Nguyễn Huệ/Từ trần ngày 10.09/Các cháu đồng lập mộ 1997”. Gần mộ Bà Vua là mộ tiến sĩ Nguyễn Văn Hiển, tác giả Đồ Bàn thành ký được nhiều người biết đến.
Ngọn đồi “dựng tóc gáy”
Theo cụ Nguyễn Văn Thiển (81 tuổi, ở thôn Vĩnh Long), bà Bích là vợ Hoàng đế Quang Trung, thuộc đời thứ 9 của dòng họ Nguyễn mà sau đó đời thứ 11 có Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển (1827 - 1865) và cụ Thiển là đời thứ 14. Ngày xưa, Gò Thỏ là khu đồi cây cối rậm rạp, có nhiều dấu vết mộ tháp của người Chăm xưa nên người dân gọi đó là rừng cấm, ít người lui tới và có nhiều thỏ sinh sống.
“Những người già trong làng còn hay kể những câu chuyện về kho báu của người Chăm ở Gò Thỏ như có người thấy con ngựa bằng vàng đi ăn hay thấy vàng hời đi ăn vào ban đêm trông như gà mẹ dẫn gà con nhưng khi lại gần thì biến mất. Thậm chí có người còn nói rằng những gia đình người Chăm giàu có mỗi khi mai táng người thân thường chôn theo rất nhiều vàng bạc và chôn sống một trinh nữ tại cửa mộ để làm thần giữ mộ. Vì thế lúc còn nhỏ chúng tôi không dám đến Gò Thỏ, đi gần đó đã thấy dựng tóc gáy. Cách đây tầm 30 năm có nhiều người đến đào tung các mộ Chăm cổ ở Gò Thỏ để tìm vàng, tìm cổ vật. Chẳng biết họ có tìm được gì không nhưng sau đó người làng chúng tôi đến các mộ này đào lấy gạch Chăm về lát đường, lát ngõ”, cụ Thiển kể.
Cụ Thiển đang giữ cuốn gia phả dòng họ Nguyễn bằng chữ Hán được phiên âm sang tiếng Việt. Theo cuốn gia phả này thì dòng họ Nguyễn ở Vĩnh Long có nguồn gốc từ họ Nguyễn ở làng Mỹ Chánh, tổng An Thơ, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong (nay thuộc xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, Quảng Trị). Các đời trước của dòng họ Nguyễn đều sinh sống tại Mỹ Chánh, đến đời thứ 9 mới có người vào ở Vĩnh Ân (nay đổi thành thôn Vĩnh Long). Bà Bích là con út trong số 16 người con của ông Nguyễn Văn Cẩn và bà Nguyễn Thị Ái. Trong gia phả có câu: “Nguyễn Thị Bích tốt vu cửu nguyệt sơ thập nhật giá vu Quang Trung Nguyễn Nhạc, An Thơ, Mỹ Chánh xuất đinh tịch tự thử thủy” được cụ Thiển giải thích là bà Bích được gả cho vua Quang Trung Nguyễn Huệ nhưng lại ghi là Nguyễn Nhạc do người trong dòng tộc nhầm lẫn. Sau sự kiện này thì làng Mỹ Chánh được vua Quang Trung ban chiếu miễn thuế thân, loại thuế được thu theo đầu người kê biên trong sổ hộ tịch của địa phương.
Theo cụ Thiển, sự kiện bà Bích được gả cho Hoàng đế Quang Trung diễn ra năm nào, nguyên nhân của mối lương duyên này ra sao thì đến nay chưa ai rõ. Trước kia, con cháu tộc Nguyễn ở Vĩnh Long chỉ được nghe người lớp trước nói mộ “Bà Vua” là mộ người của dòng họ nhưng không nghe ai giải thích vì sao, kể đến lai lịch, tên tuổi của người nằm dưới mộ. Ngôi mộ cũng không có bia ghi tên tuổi, ngày mất như những ngôi mộ khác. Khi các nhà sử học và các lãnh đạo trong huyện tìm đến, hỏi thăm, đối chiếu gia phả, giải thích thì người họ Nguyễn ở Vĩnh Long mới biết mộ “Bà Vua” là mộ bà Nguyễn Thị Bích được gả cho vua Quang Trung.
“Những chuyện về ma hời và việc không ghi thân thế của bà Bích, không xây mộ to là do những người đi trước muốn che giấu thân phận của bà, tránh sự trả thù của triều Nguyễn. Từ khi biết đến lai lịch mộ “Bà Vua”, nhiều người đến hỏi thăm gia phả, tìm hiểu về lai lịch bà Nguyễn Thị Bích nhưng không thấy các ngành chức năng có động tĩnh nào. Chúng tôi chỉ mong mộ bà Bích được công nhận là di tích, được bảo vệ, thờ cúng đúng với vị thế là vợ của một ông vua mà thôi”, cụ Thiển nói.
Cần nghiên cứu kỹ hơn
Theo sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung của TS Đỗ Bang, bà Nguyễn Thị Bích có anh là Nguyễn Văn Tuấn làm quan Thư lại ở cửa biển Đề Gi (Phù Cát) và chị dâu là Từ Thị Diệt, người thôn Vĩnh Ân. Lúc thôi làm quan, ông Tuấn về sống ở quê vợ Vĩnh Ân và khi chết cũng chôn tại Gò Thỏ. Ông Tuấn được con cháu nhận làm phái trưởng của họ Nguyễn ở Vĩnh Ân. Theo nhận định của TS Đỗ Bang thì sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, bà Bích trốn về nương náu tại gia đình người anh ở Vĩnh Ân và bà Bích có một con trai với Hoàng đế Quang Trung. Vị hoàng tử này còn sống sót sau những năm tháng bị vua quan nhà Nguyễn truy tầm, hãm diệt nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra tung tích.
Ông Châu Kinh Tú, Giám đốc Bảo tàng Quang Trung (Bình Định) cho biết: “Ngoài tư liệu của TS Đỗ Bang và cuốn gia phả của dòng họ Nguyễn, chúng tôi chưa có tư liệu nào khác để khẳng định bà Nguyễn Thị Bích là vợ Hoàng đế Quang Trung. Chúng tôi đã tìm hiểu từ phía dòng họ Nguyễn ở Vĩnh Ân và đang sưu tầm, tìm kiếm thêm ở các tư liệu khác. Cần có những nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này. Sau khi có đầy đủ luận cứ vững chắc, chúng tôi sẽ lập hồ sơ đề nghị các cơ quan chức năng công nhận mộ “Bà Vua” là di tích lịch sử”.
Hoàng Trọng

Thu phục cọp trắng, khai sơn dựng chùa

Chùa Thắng Quang (ở thôn Hy Tường, xã Hoài Sơn, H.Hoài Nhơn, Bình Định) được người dân trong vùng truyền tụng, thêu dệt nhiều câu chuyện về sự linh thiêng.


Những di tích kỳ bí - Kỳ 22: Thu phục cọp trắng, khai sơn dựng chùa
 Chùa Thắng Quang - Ảnh: Hoàng Trọng
Tọa lạc trên một ngọn đồi ở lưng chừng núi Cây Xay, tách biệt với khu dân cư, dù đường lên là dốc núi cao nhưng vẫn có rất nhiều người tìm đến chùa vãn cảnh, lễ Phật. Người dân trong vùng kể rằng, từ đời xa xưa, có nhà phong thủy đến Hy Tường, trông thấy núi Cây Xay thì nói rằng đấy là núi Đầu Rồng và chùa Thắng Quang tọa lạc trên lưỡi rồng, cạnh một hồ nước có tên là Long Thiệt (hồ Lưỡi Rồng). Nhưng dân trong vùng vẫn quen gọi tên núi Cây Xay, vì ở đó mọc toàn cây xay và chùa Thắng Quang cũng được gọi là chùa Cây Xay.
Theo thượng tọa Thích Hạnh Thiện (77 tuổi), trụ trì chùa Thắng Quang từ năm 1976 - 2013, chùa được thành lập năm 1692 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Thời đó, người dân thường lên núi Cây Xay đốn củi, lấy nước... Bỗng một ngày có hai mẹ con cọp trắng xuất hiện, ở trong một hang đá sát hồ Long Thiệt. Từ đó, người dân trong vùng không ai dám đến hồ lấy nước, dù hạn hán khủng khiếp. Một đêm, có nhà sư chẳng biết từ đâu tới, đi thẳng lên núi, dân làng gọi lại cũng mặc kệ. Sau đêm đó trở đi, người làng thấy ở hồ Long Thiệt có ánh đèn, vài ngày sau lại thấy nhà sư phát dọn quanh hồ. Nhiều người kéo nhau lên núi xem thực hư thì nhà sư cho biết đã thu phục được hai con cọp, chúng không còn hại người và khuyên dân làng cứ lên núi bình thường.
Cảm cái ơn đó, dân làng Hy Tường xin cất chùa gần hồ cho nhà sư ở lại tu hành, khai hóa Phật pháp, giúp dân làng thu phục thú dữ. Nhà sư đồng ý nhưng chỉ khuyên mọi người xây một cái am nhỏ để không tốn tiền của, công sức. Dân làng rủ nhau vào núi đốn gỗ, cắt tranh dựng am. Khi dựng xong, các bô lão trong làng xin nhà sư cho biết pháp hiệu và đặt tên am, thì sư thản nhiên bảo: “Đây là linh địa, tôi không có duyên với núi này. Cũng vì nghiệt súc tới đây tác oai tác quái mà phải theo chúng tới đây. Chờ đến bao giờ hóa độ chúng xong thì tôi lập tức trở về núi cũ. Sau này sẽ có một vị Thiện trí thức đến khai sơn thì nơi này sẽ trở thành bảo sở. Vì vậy không cần thiết phải biết tên tuổi của tôi mà mọi người nên lo tu hành để gieo nhân lành”.
Khoảng 25 sau, năm 1717, khi dân làng rủ nhau lên núi thăm nhà sư thì thấy hai con cọp đã chết từ bao giờ, nhà sư cũng đi đâu mất. Dân Hy Tường bèn xây một ngôi tháp vọng bên hữu am để hằng ngày thắp hương tưởng niệm nhà sư. Họ cũng lấp kín miệng hang để bảo toàn thi thể hai con cọp. “Sau này, khi trùng tu lại chùa, người ta phá hang lấy hai bộ xương cọp đặt vào hai chiếc hộp gỗ đem vào một khám thờ, gọi là am Bạch Hổ. Thời gian rất lâu sau đó, hai bộ xương cốt này đã bị hỏng dần và bây giờ thì không còn nữa”, thượng tọa Thích Hạnh Thiện cho biết.
Chối mệnh vua để trùng tu chùa
Thượng tọa Thích Hạnh Thiện kể tiếp, hai tháng sau khi nhà sư ra đi một cách bí ẩn, hòa thượng Minh Giác Kỳ Phương, trụ trì chùa Thập Tháp Di Đà ở An Nhơn trên đường vân du nghe chuyện lạ ở núi Cây Xay nên đến xem. Dân làng Hy Tường đón hòa thượng Minh Giác lên núi, kể lại chuyện cũ và thỉnh cầu hòa thượng đứng ra khai sơn chùa. Hòa thượng nhận lời và tổ chức lễ khai sơn, đặt tên chùa là Thắng Quang.
Theo nhà nghiên cứu Lộc Xuyên Đặng Quý Địch, kể từ hòa thượng Minh Giác đến nay, chùa Thắng Quang đã trải qua 14 đời trụ trì. Trong đó, trụ trì có công trùng kiến là hòa thượng Bảo Tạng (1822 - 1842), trụ trì có công quảng tác Phật sự là hòa thượng Hoằng Hóa (1876 - 1913) và trụ trì có công trùng tu là hòa thượng Khánh Quý (1923 - 1943). Chùa được vua Bảo Đại ban “Sắc tứ Thắng Quang tự” vào năm 1940.
Trụ trì đời thứ 5, hòa thượng Bảo Tạng, có tục danh là Ngô Văn Thụy (người thôn An Hội, xã Hoài Sơn, H.Hoài Nhơn). Năm 14 tuổi, ông xuất gia tại chùa Phước Lâm (Đà Nẵng). Năm 32 tuổi, trong lần về thăm quê ngang qua chùa Thắng Quang, nhìn cảnh chùa hoang tàn sau cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và nhà Nguyễn, lại được dân làng Hy Tường tha thiết mời, hòa thượng phát tâm trùng kiến chùa. Sau khi về chùa Phước Lâm xin phép thầy, hòa thượng Bảo Tạng trở lại chùa Thắng Quang vận động trùng tu. Tháng 8.1830, Bộ Lễ triều Nguyễn tuân chỉ dụ vua Minh Mạng cử hòa thượng Bảo Tạng làm trụ trì chùa Phước Lâm thay trụ trì trước đã già yếu. Tuy nhiên, hòa thượng Bảo Tạng khẩn khoản xin triều đình cho phép mình được về trùng tu chùa Thắng Quang. Ý nguyện của hòa thượng được triều đình phê chuẩn. Chùa Thắng Quang được xây dựng chánh điện, nhà đông, nhà tây... trong suốt thời gian từ 1836 -1841.

Chuông cổ có giá trị
Theo nhà nghiên cứu Lộc Xuyên Đặng Quý Địch thì: “Báu vật quý nhất chùa Thắng Quang là quả chuông cổ rất đẹp, cao 1 m, đường kính 0,65 m, nặng hơn 200 kg. Trên thân chuông, một mặt khắc bốn hàng chữ Hán có nghĩa: Yết Ma, pháp danh Đạt Huệ, pháp tự Thiền Định (trụ trì) chùa Kim Quang tại thành Nam Vang (thủ đô nước Cao Miên) kính cẩn cúng chuông này cho chùa Thắng Quang. Mặt đối diện khắc năm hàng chữ Hán được dịch nghĩa: Chùa Kim Quang hiệp cùng tín đồ cư sĩ bổn đạo tại châu thành Nam Vang phụng cúng chuông lớn. Ngày tốt tháng mùa Thu năm Quý Mão (1843).
Hoàng Trọng

Đi tìm kho báu của vua Chăm Pa

Hố Giang (thôn Thành Sơn Tây, xã Hoài Châu, H.Hoài Nhơn, Bình Định), nơi có hòn đá Chữ, được dân gian đồn đoán là có kho báu của người vương quốc Chiêm Thành cổ xưa.


Những di tích kỳ bí - Kỳ 23: Đi tìm kho báu của vua Chăm Pa
Suối Hố Giang, đoạn có hòn đá Chữ - Ảnh: Hoàng Trọng
Thắng cảnh huyền bí
Trong vô số những câu chuyện hoang đường về kho báu ở Hố Giang, người dân địa phương thường kể câu chuyện một cậu bé nhà nghèo, nghe lời đồn đoán về kho báu nên mải miết đi tìm để đổi đời. Một hôm cậu phát hiện hang đá lớn ở Hố Giang, trong hang đầy ánh hào quang tỏa ra từ những pho tượng bằng vàng. Chìm trong mê hoặc, cậu bé đi vào sâu trong hang cho đến khi cửa hang bất ngờ khép lại, kho báu vĩnh viễn chìm trong bí mật. Đời sau có bao thế hệ người đi tìm kho báu nhưng cuối cùng đều thất vọng ra về.
Khác với những năm trước, khi Hố Giang còn nằm lọt giữa rừng, bây giờ từ đập Hố Giang ở dưới chân núi chỉ cần đi xe máy khoảng 1 km đường dốc đá, vòng vèo là đến được hòn đá Chữ. Đập vào mắt đầu tiên là hình ảnh một bức tranh sơn thủy hữu tình. Suối Hố Giang tuyệt đẹp, những tảng đá khổng lồ nằm nối tiếp nhau, chồng lên nhau và có những tảng dựng đứng lên như một tấm bia khổng lồ.
Hòn đá Chữ nằm giữa lòng suối, chỉ lộ thiên vào mùa nước cạn. Hòn đá này rộng khoảng hơn 2 m, dài hơn 3 m, khắc đầy minh văn viết bằng chữ Chăm Pa cổ. Có tổng cộng 15 hàng chữ nhưng do bị nước xói mòn, rêu phủ đen nên rất khó nhận diện. Quanh hòn đá Chữ còn vô số những dấu vết như bàn chân của một người và nhiều dấu vết nhiều lỗ tròn trên bề mặt phiến đá. Người dân trong vùng giải thích đó là dấu chân và dấu gậy của người khổng lồ ngày xưa gánh đất, vật liệu đi xây kho báu. Cách hòn đá Chữ khoảng 50 m có một tảng đá có vân rất lạ, hình hộp chữ nhật nên được người dân gọi là đá quan tài.

Văn bia thế kỷ 12 ?
Theo TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định, hòn đá Chữ chính là bia Thành Sơn, được người Pháp thống kê từ năm 1932 cùng với 18 văn bia Chăm Pa khác ở tỉnh Bình Định. Dựa vào đặc điểm nét chữ vuông (nét chữ Chăm tròn ra đời muộn hơn nét chữ vuông) trên hòn đá Chữ, các nhà khoa học cho rằng văn bia này được ghi từ thế kỷ 12. “Người Pháp đã đọc được văn bia Thành Sơn từ lâu rồi. Theo tôi được biết thì văn bia này là cột mốc biên giới của người Chăm Pa. Trong bia có nhắc đến một vương quốc của người Chăm Pa ở miền núi và ca ngợi vị vua trị vì vương quốc này”, TS Đinh Bá Hòa nói.
Dưới hòn đá Chữ là một hố sâu đầy nước được giải thích là một giếng sâu thông ra tận biển khơi. Vào những mùa nắng kéo dài, khi trời sắp mưa, lòng giếng vọng lên những tiếng động lạ và người dân quanh vùng thường nhìn thấy cầu vồng bảy sắc hiện ra từ miệng giếng.
Khi chúng tôi hỏi những câu chuyện kỳ lạ về Hố Giang, ông Võ Văn Phụng, Trưởng thôn Thành Sơn Tây, chỉ cười và khẳng định tất cả những câu chuyện về kho vàng dưới Hố Giang đều hoang đường, do người đời dựa vào những dấu hiệu trên các tảng đá và hòn đá Chữ trên suối Hố Giang mà thêu dệt nên. “Hố Giang nằm trong lòng núi có tên Mạch Vàng từ xa xưa, lại có hòn đá Chữ bí ẩn nên nhiều người suy đoán trong núi có kho vàng của người Chăm. Tên Hố Giang là do người dân trong vùng phát âm “v” thành “d” chứ tên thật là Hố Vang vì quanh năm mọi người nghe tiếng nước suối chảy. Cũng có người vì quá tin là núi có vàng nên cứ nghĩ tên Hố Giang là do cách phát âm của từ Hố Vàng mà ra”, ông Phụng nói.
Theo ông Phụng, những năm 1971 - 1972, máy bay Mỹ ném bom làm bật ra những bức tường thành xây bằng gạch Chăm nằm sâu trong vùng núi Hố Giang, người dân đến mang gạch này về dùng. Nhiều người còn kể rằng đã thấy những đoạn tường thành xây bằng gạch Chăm ẩn trong lòng đất. Chính những đoạn tường thành này, cộng với hòn đá Chữ, giếng nước trong lòng Hố Giang mà nhiều người tin đó là những ký hiệu dẫn đến kho báu. “Cách đây hơn 10 năm, sau khi các cơ quan chức năng tiến hành khai quật Hố Giang rồi rút đi, nhiều người đã kéo đến đây đào bới để tìm vàng. Có ông thầy pháp còn mời cả người Chăm đến tìm, thuê người dân trong vùng đến đào bới, ăn ngủ luôn trong hố. Lực lượng công an, bộ đội được cử đến túc trực tại Hố Giang mới bảo vệ được di tích này, chứ không thì bây giờ đã bị đào bới sạch cả rồi”, ông Phụng nói.
Cột mốc biên giới
Trong các tư liệu về Hố Giang được Thư viện Tổng hợp Bình Định lưu giữ có bài viết của nhà văn Từ Quốc Hoài giả định vùng Hố Giang này là kinh đô sơ tán của vua Chiêm Thành (tên của Vương quốc Chăm Pa) trong cuộc chiến chống quân Nguyên vào cuối thế kỷ 13. Theo ý kiến này thì trong cuộc chiến xâm lăng của quân Nguyên bắt đầu diễn ra vào năm 1282, quốc vương Chiêm Thành là Indravarman 5 cho đốt kho lương, bỏ trống kinh thành Đồ Bàn, cùng quân sĩ cố thủ tại một vùng núi hiểm trở. Cuộc chiến diễn ra trên những vùng rừng núi sơn lam chướng khí, các kho lương bị thiêu hủy nên làm cho quân Nguyên lâm vào cảnh khốn đốn: đói, bệnh tật, bị tập kích tứ phía... Đầu năm 1284, nhà Nguyên lại phái quân tăng viện, nhưng khi tới cảng Thị Nại thì lại bị quân Chiêm Thành chống cự quyết liệt gây tổn thất nặng phải kéo quân đi nơi khác. Năm 1285, cùng với thắng lợi của Đại Việt, vương quốc Chiêm Thành trở lại yên bình, vua Indravaraman 5 cùng triều thần rời kinh đô sơ tán tại vùng núi hiểm trở trở về kinh thành Đồ Bàn.
Hoàng Trọng

Lỗ Ông Tướng

Nhiều người dân ở làng Dõng Hòa (xã Bình Hòa, H.Tây Sơn, Bình Định) vẫn... sợ ma khi đi ngang một ao nước có tên gọi Lỗ Ông Tướng, nhất là vào lúc rạng sáng.


Lỗ Ông Tướng, nơi tướng Đặng Xuân Phong tắm ngựa - Ảnh: Hoàng Trọng
Lỗ Ông Tướng, nơi tướng Đặng Xuân Phong tắm ngựa - Ảnh: Hoàng Trọng 
Do sự bồi lấp của sông Côn, người dân ở làng Dõng Hòa kể rằng ngày xưa Lỗ Ông Tướng sâu hàng chục mét, nhưng nay đã bị bồi lấp. Tuy nhiên, nhiều người trong làng cho rằng đây là nơi linh thiêng, thường có những câu chuyện thêu dệt kỳ dị và ai cũng có cảm giác sợ hãi khi đi qua nơi này.
Nhất là vào lúc rạng sáng hay những đêm trăng thanh tịnh, có người thấy một vị tướng mặc áo giáp, cưỡi ngựa đi qua lại Lỗ Ông Tướng. “Ngày xưa, đường từ Dõng Hòa đi Phú Phong (H.Tây Sơn) nằm sát mép sông Côn, phải đi ngang qua Lỗ Ông Tướng nên nhiều người gặp chuyện ma quái. Sau này, đường từ Dõng Hòa đi Phú Phong cũng được thay đổi bằng tuyến khác nên chuyện kỳ dị cũng ít dần”, ông Võ Ngọc Châu (80 tuổi), nhà ở gần Lỗ Ông Tướng, cho biết.
“Hồn thiêng tướng quân thử võ nghệ”
Trong số những câu chuyện liêu trai tại Lỗ Ông Tướng, những người già trong làng Dõng Hòa hay nhắc đến chuyện ông Khách Hai bị hồn thiêng tướng quân thử võ nghệ. Ông Khách Hai vốn là người Trung Quốc sang sinh sống tại làng Dõng Hòa, có võ nghệ vào hàng vô địch trong làng. Bà Khách Hai buôn bán ở chợ Dõng Hòa, phải thường xuyên đi qua Lỗ Ông Tướng vào lúc rạng sáng. Nhưng bà là người rất sợ ma nên ông Khách Hai phải dẫn qua Lỗ Ông Tướng. Một hôm, sau khi dẫn vợ đến chợ rồi trở về, ông Khách Hai đi qua Lỗ Ông Tướng thì thấy một vị tướng dáng người cao to, râu dài, mặc áo giáp đen, cưỡi trên con ngựa màu tía. Ông Khách Hai còn đang lúng túng thì vị tướng kia vung đao đánh. Ông Khách Hai đỡ được vài chiêu thì vị tướng biến mất. Về nhà, ông Khách Hai xem lại thì thấy hai cánh tay bị bầm mấy chỗ.
Ông Trần Sanh Quý (78 tuổi, ở làng Dõng Hòa), cháu nội ông Khách Hai, khẳng định câu chuyện trên là do ông nội mình kể khi còn sống. Ông Khách Hai tên thật là Trần Quốc Ân, có học võ trước khi sang sinh sống tại Bình Định.
Theo nhà thơ Trần Viết Dũng (ở thị trấn Phú Phong, H.Tây Sơn), người hay tìm hiểu về lịch sử, văn hóa tại địa phương, làng Dõng Hòa là quê hương của tướng Đặng Xuân Phong thời Tây Sơn. Có tên Lỗ Ông Tướng là do ngày xưa tướng Đặng Xuân Phong và ngựa Ô Du của ông thường tắm ở đây. Trong làng Dõng Hòa còn có Gò Ngựa, là nơi Đặng Xuân Phong luyện tập binh sĩ.
“Kỳ hẹn đáo lai”
Theo ông Trần Sanh Quý, thời Tây Sơn, làng Dõng Hòa được đặt tên là làng Kỳ Đáo, xuất phát từ giai thoại “kỳ hẹn đáo lai” (hẹn đến kỳ gặp lại) của Nguyễn Nhạc. Trước khi dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc hẹn bạn bè và các hào kiệt mỗi tháng hai lần gặp nhau tại điểm bí mật ở làng Dõng Hòa để nắm quân tình, bàn chuyện đại sự. Nguyễn Nhạc cũng hẹn với một người bạn của mình là Châu Văn Tiếp (người tỉnh Phú Yên, gốc Bình Định) đến làng Dõng Hòa để bàn chuyện khởi nghĩa nhưng ông Tiếp thất hẹn không đến mà bỏ vào miền Nam theo chúa Nguyễn.
Nhà thơ Trần Viết Dũng còn kể một cuộc ước hẹn khác tại làng Dõng Hòa giữa Nguyễn Huệ và Đặng Xuân Phong. Truyền thuyết kể lại rằng, Đặng Xuân Phong có tài cưỡi ngựa, bắn cung nên nữ tướng Bùi Thị Xuân và Đại tổng lý Võ Đình Tú xuống Dõng Hòa mời ông tham gia nghĩa quân. Đặng Xuân Phong nhận lời. Khi Nguyễn Huệ trên đường từ Tây Sơn thượng đạo (TX.An Khê, Gia Lai ngày nay) đi đánh dẹp quân chúa Nguyễn ở Phú Yên đã ghé lại làng Dõng Hòa thu nhận Ðặng Xuân Phong và đoàn binh của ông tại Gò Ngựa. Trận đầu ra quân, Ðặng Xuân Phong bắn chết tướng Nguyễn Văn Hiền của quân Nguyễn tại trận, góp phần vào thắng lợi của quân Tây Sơn. Từ Phú Yên trở về, Đặng Xuân Phong được Nguyễn Nhạc cử lãnh binh đi đánh lấy Quảng Nam và ông đã lấy được Thăng Bình, Điện Bàn, giết được 2 tướng nhà Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân...
Trước khi lên đường ra Thuận Hóa, Nguyễn Huệ có đến thăm Đặng Xuân Phong, nơi ông đang luyện quân tại Gò Ngựa và hẹn ngày gặp lại. Nhưng rồi chinh chiến triền miên, năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua rồi đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược, xây dựng bờ cõi. Đặng Xuân Phong ở quê nhà vẫn làm tướng dưới triều Nguyễn Nhạc. Năm 1792, cả thành Hoàng Đế (kinh đô của vương triều Nguyễn Nhạc) như chết lặng khi tin Nguyễn Huệ băng hà ở Phú Xuân (Huế). Đặng Xuân Phong khóc nức nở suốt đường ra Phú Xuân viếng Nguyễn Huệ. Ông ở lại giúp con trai của Nguyễn Huệ là vua Quang Toản. Nhưng rồi lại chán ghét cảnh gian thần lộng hành, nội bộ lục đục, Đặng Xuân Phong từ quan về quê quy ẩn. Khi nhà Tây Sơn mất, ông và gia đình mây ngàn biệt tích.

Cửu diệu tinh
Theo nhà thơ Trần Viết Dũng, truyền thuyết vùng Tây Sơn kể lại rằng, Hòn Trưng, còn gọi là Bút Sơn (thuộc xã Bình Thành, H.Tây Sơn) có tất cả chín cục u, gọi là Cửu diệu tinh, tức là chín ngôi sao sáng chiếu mạng chín nhân kiệt sinh trưởng quanh vùng. Những nhân kiệt này gồm 4 hổ tướng là Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Lê Văn Hưng, Đặng Xuân Phong; 3 phụng thư là Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan và 2 kỳ sĩ là Nguyễn Thung, Võ Xuân Hoài. 9 nhân kiệt này đã giúp nhà Tây Sơn làm nên cơ nghiệp.
Hoàng Trọng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét