Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016

18 phần về cuộc Bắc phạt thần thánh của Lý Thường Kiệt



Cuộc chiến Bắc phạt là một chương oai hùng trong lịch sử Đại Việt
   Báo điện tử Một Thế Giới xin giới thiệu loạt bài về chống ngoại xâm phương Bắc và bắt đầu về cuộc chiến thần thánh phạt Tống của Lý Thường Kiệt.
Lời tòa soạn
Nước Việt kể từ khi Ngô Quyền nối lại quốc thống, thoát khỏi ách đô hộ ngót ngàn năm của phương Bắc đã vượt qua nhiều thăng trầm sóng gió để tồn tại và phát triển. Xuyên suốt từ các triều đại đều phải liên tiếp chống trả các thế lực ngoại bang để bảo vệ đất nước. Để giúp độc giả có cái nhìn sâu hơn về lịch sử giữ nước hào hùng của dân tộc, báo điện tử Một Thế Giới xin giới thiệu loạt bài về chống ngoại xâm phương Bắc và bắt đầu về cuộc chiến thần thánh phạt Tống của Lý Thường Kiệt. 
Có thể nói một trong những biến cố quan trọng trong tiến trình dựng nước, giữ nước của dân tộc là cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt dưới thời vua Lý Nhân Tông chống lại âm mưu xâu xé nước ta của liên minh Tống – Chiêm Thành – Khmer do nước Tống cầm đầu. Trong giai đoạn này đã phát sinh những sự kiện chấn động, những chiến công hiển hách như cuộc hành quân đẩy lùi quân Chiêm Thành (1075), cuộc Bắc phạt đánh Tống ngoạn mục và đầy mưu trí của Lý Thường Kiệt (1075 – 1076), và cuối cùng là cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống trên lãnh thổ Đại Việt thần thánh (1076 – 1077), đánh bại một đội quân xâm lược khổng lồ hàng chục vạn tên với những danh tướng hàng đầu của Tống triều. Sử sách và tâm trí người dân Việt mãi ghi nhớ chiến công của quân dân Đại Việt thời nhà Lý, với những tên tuổi mãi lưu danh thơm như Lý Thường Kiệt, Tông Đản, Lý Kế Nguyên, Thân Cảnh Phúc, Hoằng Chân, Chiêu Văn, Ỷ Lan, Lý Đạo Thành… Những tên tuổi đã góp phần làm nên niềm tự hào bất tận của dòng dõi Lạc Hồng, khẳng định sức sống mãnh liệt, ý chí tự cường của dân tộc Việt Nam.
Ở loạt 18 bài này, chúng tôi cố gắng gởi đến Quý độc giả một cái nhìn mới mẻ, vừa khái quát liền mạch lại vừa đầy đủ chi tiết nhất có thể. Trong quá trình nghiên cứu và tường thuật chúng tôi đã tham khảo và đối chiếu những tài liệu sau: Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý (Hoàng Xuân Hãn) ; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngô Sĩ Liên); Đại Việt Sử Lược (Khuyết danh); Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 1 (nhiều tác giả); Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam (Phạm Hồng Sơn) ; Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Quốc sử quán triều Nguyễn); An Nam Chí Lược (Lê Tắc); Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim), Quân thủy trong lịch sử chống giặc ngoại xâm (nhiều tác giả), Lịch Sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX (Lê Thành Khôi) … cùng các tài liệu sưu tầm khác. Rất mong sẽ nhận được sự đón nhận và góp ý của Quý độc giả!

Từ cuộc chiến nội cung nhà Lý đến cuộc Bắc phạt phá Tống của Lý Thường Kiệt

   Sau khi Lý Thánh Tông mất, triều đình rơi vào cuộc đấu đá giữa phe của hoàng thái phi Ỷ Lan được Thái úy Lý Thường Kiệt ủng hộ và phe của Thượng Dương hoàng thái hậu được thái sư Lý Đạo Thành phò tá. Nhà Tống nhân cơ hội đó nhòm ngó nước ta.
1. Sự hùng cường của vương triều Lý và quốc hiệu Đại Việt
Những triều đại phong kiến đầu tiên hậu Bắc thuộc trị quốc chủ yếu bằng võ, các quan đa phần là võ tướng. Các vua thu phục nhân tâm bằng uy tín cá nhân, chuẩn mực đạo đức phong kiến chưa thực sự hoàn thiện để có thể duy trì một hệ thống thế tập. Ngai vàng liên tục đổi họ, mỗi một vị vua qua đời là để lại một khoảng trống quyền lực để rồi các phe phái trong hoàng tộc hoặc quý tộc phong kiến nhảy vào tranh giành. Do đó mà gây ra những cuộc nội chiến liên miên. Đó là mầm họa rất nguy hiểm cho đất nước.
Vào thế kỷ XI, khi vương triều Lý thành lập thì những rường mối cho một chính quyền phong kiến thế tập mới thực sự được hoàn thiện. Vua Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn là nhân vật được sự hậu thuẫn của giới tăng lữ Phật giáo, lại là một người được học tập cả sách Nho và sách Phật. Lý Công Uẩn làm quan dưới triều Lê Long Đĩnh được phong đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, uy tín và đức độ bậc nhất triều đình. Năm 1009, ông được triều thần suy tôn làm vua sau khi vua Lê Long Đĩnh chết.
Cuộc đổi ngôi này êm thắm hiếm thấy bậc nhất trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian trị vì, vua Lý Thái Tổ đã thiết lập lại trật tự cho nhà nước quân chủ. Ông thường xuyên phải đi đánh dẹp những phiên thần không quy phục triều đình, sửa sang văn trị, trọng nông nghiệp, mở rộng giao thương. Dưới thời ông, tam giáo Nho, Phật, Lão đều được phát triển, bổ khuyết cho nhau để hình thành một hệ thống tư tưởng mới cho đất nước.
Nếu như Nho giáo dạy người trung quân, ái quốc giúp thuận lợi cho xây dựng nhà nước quân chủ, thì đạo Phật làm góp phần làm nên một xã hội hài hòa, thuận lợi cho phát triển đời sống nhân dân. Đặc biệt, Lý Thái Tổ đã cho định đô ở thành Đại La, đổi tên là thành Thăng Long, đánh dấu một thời kỳ mới của dân tộc. Người Việt đã không còn giữ thế thủ ở đô thành Hoa Lư hiểm trở, mà đã hiên ngang với một kinh đô mới nằm giữa đồng bằng cao thoáng, nhằm phát triển mọi mặt từ kinh tế, văn hóa đến sức mạnh quân sự.


Bản đồ nước Việt thời Lý

Các vua đầu triều Lý đều là những bậc minh quân. Nhờ vậy mà thế nước ngày một vững mạnh. Trải qua các đời vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông thì nước Đại Cồ Việt đã dần vươn lên trở thành một đất nước thịnh vượng, văn minh và mạnh mẽ.  Năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi tên nước thành Đại Việt. Từ đây, quốc hiệu Đại Việt đã cùng dân tộc ta trải qua biết bao vinh quang, cay đắng, những thăng trầm trong tiến trình lịch sử.
Chuyện kể rằng, vua Lý Thánh Tông tuổi đã gần tứ tuần mà chưa có con trai nối ngôi, nên ngày ngày cầu khấn mong sinh được hoàng tử. Vua thường đi chơi khắp các chùa quán, dân gian thấy xa giá đến đâu thì rủ nhau xúm lại xem. Vua đi cầu tự ở chùa Dâu, thấy dọc đường mọi người đổ xô ra đón, duy chỉ có người con gái hái dâu đứng ở phía xa, tựa vào gốc cây lan mà hát. Vua lấy làm thích, đưa người con gái ấy vào cung, phong làm Ỷ Lan Phu Nhân. Được vua yêu, ít năm sau Ỷ Lan sinh hoàng tử, đặt tên là Lý Càn Đức. Ngay sau khi sinh ra, hoàng tử Càn Đức đã được vua Lý Thánh Tông phong làm Đông cung Thái tử. Trăm họ vui mừng, bá quan phấn khởi. Số mệnh của cậu bé Lý Càn Đức đã được định sẵn, sinh ra để làm quân chủ nước Đại Việt.
Ỷ Lan được vua phong làm Thần Phi, sau vua lại phong là Ỷ Lan Nguyên Phi, đứng đầu các phi tần, chỉ sau Thượng Dương hoàng hậu. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành, lấy cớ là nước Chiêm Thành đã lâu không sai sứ sang chầu và thường quấy nhiễu biên giới phía nam. Ỷ Lan Nguyên Phi được vua tin cậy giao cho làm Nhiếp chính, cùng Thái sư Lý Đạo Thành trông coi chính sự. Bấy giờ, vua đánh Chiêm Thành lâu ngày mà không dứt điểm được, bèn lui quân. Thuyền ngự về đến châu Cư Liên, nghe tin Ỷ Lan Nguyên Phi trị quốc tài giỏi, trong nước muôn dân ca tụng. Vua khẳng khái nói : "Kìa, một người đàn bà còn làm được như thế, ta là tài trai mà không hạ được nước Chiêm Thành nhỏ xíu, chả hóa ra xoàng lắm ru ?”. Nói xong bèn dẫn quân quay trở lại đánh tiếp. Lúc này sĩ khí lên cao, quân Đại Việt đại thắng. Đô thành Vjiaya của Chiêm Thành bị chiếm, vua Chiêm là Chế Củ cùng 5 vạn dân Chiêm bị bắt. Chế Củ dâng ba châu Ma Linh, Bố Chính, Địa Lý để chuộc mạng. Vua bằng lòng, lãnh thổ Đại Việt được mở rộng về phương nam, bờ cõi phía nam cũng được yên.
Mọi chuyện diễn rất tốt đẹp kể từ sau chiến thắng với Chiêm Thành. Nước Đại Việt bấy giờ là một đất nước thanh bình, thịnh vượng với nền nông nghiệp phát triển, với những công trình cung điện, chùa chiền tráng lệ. Các nghề thủ công như đúc đồng, điêu khắc, làm gốm, làm mộc… đều phát triển rực rỡ. Thuyền buôn Đại Việt giương buồm đi khắp nơi trên vùng biển Đông Nam Á, đến các nước Tống, Chiêm Thành, Chân Lạp, Java… để buôn bán các sản phẩm như gia vị, hương liệu, tơ lụa, đồ gốm, thổ sản … Nước Đại Việt còn có nguồn lợi mỏ vàng, mỏ đồng ở phía Bắc. Người Việt ở các vùng có mỏ vàng trở nên giàu có, hay mua người Tống về để làm nô tì. Hải cảng Vân Đồn tấp nập ghe thuyền ngoại quốc đến buôn bán. Dười triều Lý Thánh Tông, nước Chân Lạp cũng thường gởi sứ sang dâng cống phẩm. Nước Tống khi đó quả không dám vọng động nhòm ngó xuống phương Nam.
2. Ấu chúa và cuộc đấu đá nội bộ
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, hưởng dương 50 tuổi. Thái tử Lý Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi vua. Sử gọi là vua Lý Nhân Tông. Vua còn nhỏ tuổi chưa hiểu chuyện để trị nước, triều đình và nội cung rơi vào cuộc đấu đá cạnh tranh quyền lực giữa phe của hoàng thái phi Ỷ Lan được Thái úy Lý Thường Kiệt ủng hộ và phe của Thượng Dương hoàng thái hậu được thái sư Lý Đạo Thành phò tá.
Nguyên bấy giờ Ỷ Lan Hoàng thái phi là mẹ đẻ của vua, lại là người có tài trị quốc, từng có kinh nghiệm nhiếp chính lúc tiên đế Lý Thánh Tông thân chinh nên được nhiều triều thần ủng hộ. Nhưng Thái sư Lý Đạo Thành là người trọng lễ giáo, ông đã cùng những người ủng hộ suy tôn Thượng Dương Hoàng Thái Hậu - người vợ chính thức của tiên đế Lý Thánh Tông lên làm Nhiếp chính. Thượng Dương Hoàng thái hậu tuy có được danh chính ngôn thuận nhưng là người không thông hiểu chính trị và thiếu uy tín.
Ỷ Lan vốn tự phụ mình là người có công sinh ra vua lại giỏi giang hơn, có nhiều công lao hơn mà không được dự quyền chính nên sinh lòng ghen ghét, bất phục. Cô gái hái dâu vùng Kinh Bắc ngày nào giờ đã trở thành người phụ nữ đầy tham vọng và mưu mô. Bà đã cố gắng thuyết phục Thái úy Lý Thường Kiệt về phe của mình trong cuộc chiến tranh giành quyền lực để làm áp lực lên vua nhỏ Lý Nhân Tông và triều thần. Mặc khác, với thân phận là mẹ đẻ của vua, Ỷ Lan Hoàng thái phi đã nói riêng với vua : "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú qúy người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua Lý Nhân Tông đã vì chữ hiếu với mẹ đẻ mà ra tay, Thượng Dương Hoàng thái hậu bị giam lỏng trong cung Thượng Dương cùng với 72 tì nữ của bà.
Hình tượng Ỷ Lan trên sân khấu

Năm 1073, vua Lý Nhân Tông cùng một số triều thần lại thể theo tục lệ tùy táng vốn thịnh hành trong giới quý tộc thời trung đại, bắt Thượng Dương Hoàng thái hậu và 72 tì nữ phải chết theo tiên đế Lý Thánh Tông. Sau khi Thượng Dương Hoàng thái hậu chết, Ỷ Lan Hoàng thái phi được vua phong làm Linh Nhân Hoàng thái hậu, giữ vai trò nhiếp chính, cùng với Thái úy Lý Thường Kiệt làm phụ chính. Vua phong cho Lý Thường Kiệt chức Đôn Quốc thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ, gia hiệu Thượng phụ công, đứng đầu cả hai ban văn võ. Thái sư Lý Đạo Thành và toàn bộ những người ủng hộ Thượng Dương hoàng thái hậu đã hoàn toàn thất thế. Thái sư Lý Đạo Thành lãnh chức Tả gián nghị đại phu, được điều ra coi châu Nghệ An. Đối với một vị Thái sư thì chức vụ này chẳng khác gì bị đi đày. Vốn đây là một bước đi loại trừ địch thủ chính trị tại trung ương của Ỷ Lan Linh Nhân Hoàng thái hậu.
Đánh giá về sự kiện này, sử thần Ngô Sĩ Liên triều Hậu Lê đã có nhận xét dưới cái nhìn của đạo đức Ngo gia : Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lý Đạo Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián việc ấy ?
Những sự tranh giành về quyền chính, đấu đá nội bộ này của Đại Việt đã không lọt khỏi tai mắt của thám tử nước Tống. Đây là một trong những tiền đề quan trọng khơi dậy dã tâm xâm lược Đại Việt của vua tôi nước Tống. Tuy quốc lực Đại Việt đầu thời vua Lý Nhân Tông vẫn rất vững mạnh, nhân tài vật lực dồi dào nhưng với nội bộ thiếu đoàn kết, nước ta đã trở thành miếng mồi mà nước Tống nhắm tới.

Nhà Lý nhiều lần uy hiếp nhà Tống sau khi bị khiêu khích

   Nước Tống tuy ra vẻ bề trên nhưng vẫn sợ uy của triều Lý. Năm 1059 Lý Thánh Tông đã đem quân đánh vào Khâm Châu của Tống, cướp phá các động Tư Lãm, Cổ Vạn, Chiêm Lãng trên đất Tống, uy hiếp thành trì, thị uy rồi rút về.

Kể từ khi vương triều Lý thành lập cho đến thời vua Lý Thánh Tông thì quan hệ Tống – Việt nhìn chung là khá tốt. Hai nước thường xuyên gởi sứ giả qua lại, quan hệ buôn bán cũng rất phát triển. Người Tống mở các Bạc dịch trường nơi gần biên giới làm nơi trao đổi, buôn bán giữa thương nhân hai nước. Quan hệ thương mại với nước Tống là một phần quan trọng trong việc giao thương của Đại Việt. Các vua Lý tỏ ra nhún nhường với Tống, thường gởi cống phẩm và nhận các sắc phong của vua Tống. Thư từ của vua Đại Việt gởi cho vua Tống gọi là Biểu, một tên gọi dành cho văn bản cấp dưới gởi cho cấp trên. Thư từ, văn bản mà vua Tống gửi cho vua Đại Việt thì gọi là Chiếu, tên gọi dùng cho văn bản vua gởi cho cấp dưới. Mặc dù Đại Việt chấp nhận một mối quan hệ nước lớn, nước nhỏ đối với Tống nhưng cũng tỏ ra rất tự cường trong các chính sách đối nội và đối ngoại. Các vua Lý một mặt vẫn nhận sắc phong Vương của vua Tống, mặc khác vẫn tự xưng Đế, và các vấn đề về biên giới đối với nước Tống rất cương quyết.
Nước Tống tuy ra vẻ bề trên nhưng vẫn sợ uy của triều Lý. Minh chứng rõ nét là khi Nùng Trí Cao nổi lên dựng nước Nam Thiên, ông muốn thuần phục Tống để chống lại Việt nhưng nước Tống đã không dám nhận lời, vì sợ mất lòng triều Lý. Đặc biệt, vào năm 1059 Lý Thánh Tông đã đem quân đánh vào Khâm Châu của Tống, cướp phá các động Tư Lãm, Cổ Vạn, Chiêm Lãng trên đất Tống, uy hiếp thành trì, thị uy rồi rút về. Về nguyên cớ của cuộc tấn công này, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chỉ ghi chép ngắn gọn là “vì người Tống tráo trở”. Thực chất nguyên nhân cụ thể là chính sách thù địch của viên quan Tri châu tên là Tiêu Chú đối với Đại Việt. Tiêu Chú thường xuyên cho người chiêu dụ những tù trưởng biên giới nước ta bỏ Việt theo Tống, ngầm ngầm nuôi bọn du đãng để chống phá Đại Việt và thường dâng thư về triều Tống khuyên gây chiến. Vua Tống biết do cấp dưới mình khiêu khích trước, sợ sẽ bùng phát chiến tranh nên cũng làm lơ cho qua.
Nguyên bấy giờ phía Bắc nước Tống có nước Liêu của người Khiết Đan, nước Tây Hạ của người Đảng Hạng mới lập đều là những nước có quân đội mạnh, là những dân tộc thiện chiến thường xâm lấn quấy nhiễu nước Tống, buộc Tống phải cống nạp để yên ổn. Vì vậy bao nhiêu binh hùng tướng mạnh của Tống chủ yếu dùng để phòng thủ hướng bắc, không có đủ điều kiện để thi hành một chính sách cứng rắn đối với Đại Việt ở phương nam.
Từ khi vua Tống Thần Tông lên ngôi (năm 1067), đã tin dùng Vương An Thạch, phong làm Tể tướng (năm 1069). Tể tướng Vương An Thạch đã tiến hành cải cách mang tên Tân pháp để củng cố lại kinh tế, binh bị của nước Tống. Tân pháp đã mang lại một số thay đổi tích cực cho kinh tế, quân đội. Tiềm lực nước Tống được cải thiện nhiều, nhất là tập trung được các nguồn lực đất nước vào tay triều đình. Nhưng với những biện pháp quá mạnh tay, và hệ thống quan lại thi hành Tân pháp lại có kẻ tham nhũng nên đã vấp phải nhiều sự bất bình và kháng cự của dân chúng cùng giới quan lại thủ cựu. Tể tướng Vương An Thạch cùng vua Tống chủ trương đánh Đại Việt, nước mà ông cho là yếu hơn Liêu, Tây Hạ, vua Lý Nhân Tông lại còn nhỏ tuổi (Lý Nhân Tông, tên thật là Lý Càn Đức lên ngôi khi mới 7 tuổi) để giải tỏa mâu thuẫn trong nước, dùng chiến công để lấy lại uy thế phe cải cách và uy thế nước Tống, chứng tỏ sự hiệu nghiệm của các Tân pháp, thôn tính mở rộng lãnh thổ, cuối cùng là mưu toan cướp bóc của cải và tài nguyên của Đại Việt để làm giàu cho Tống.
Vốn trong thời trị vì của Lý Thánh Tông, vua tôi nước Tống đã có ý nhòm ngó Đại Việt. Nhưng lúc này họ còn ngại thế lực Đại Việt đang cường thịnh, nội bộ lại đoàn kết. Đến khi biết nội tình Đại Việt có nhiều xáo trộn trong cuộc đổi ngôi, vua mới còn nhỏ thì vua Tống Thần Tông mới hạ quyết tâm. Các quan chức Tống đoán biết ý, đã xàm tấu với vua Tống rằng: "Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thành bị thất bại, quân không còn nổi một vạn, có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ."


Vua Tống cho mời viên Tri châu Quế là Tiêu Chú để bàn về việc đánh Đại Việt. Tiêu Chú vốn là người thông hiểu tình hình Đại Việt. Tuy trước đây y rất hiếu chiến, nhưng biết tình thế đã thay đổi nhiều nên tỏ ra rất thận trọng. Tiêu Chú đã tâu rằng : “Xưa, tôi cũng có ý ấy. Bấy giờ quân khê động một người ta có thể địch mười; khí giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo, là điều khiển được. Nay, hai điều ấy không như trước; binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà người Giao Chỉ lại sinh tụ, giáo hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao không đầy một vạn thì sợ sai”.
Vua Tống Thần Tông không thích lời tâu này. Lại thêm có viên Hình Bộ lang trung Thẩm Khởi tâu: “Giao Chỉ là đồ hèn mọn. Không lý gì không lấy được”. Vua Tống hài lòng với lời tâu hiếu chiến ấy, bèn giao cho Thẩm Khởi làm Quảng Tây kinh lược sứ. Khởi được phép tự tiện hành sự trước rồi tâu sau, lo chuẩn bị cho chiến tranh. Thẩm Khởi nhân đó mà chuyên quyền.
Bản đồ các nước thời Lý

Qua việc bổ nhiệm Thẩm Khởi, vua Tống đã thể hiện rõ ý định xâm lược. Vua tôi nước Tống bàn nhau: “Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu Hạ sẽ phải kiêng nể”.
Để thực hiện tham vọng xâm lược, nước Tống có nhiều nước đi chuẩn bị kỹ lưỡng.
Về hậu cần lực lượng, ba thành nằm trên đường tiếp vận của quân Tống sang biên giới Đại Việt là Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu đã trở thành những nơi tích trữ lương thảo, khí giới, mộ tân binh để huấn luyện. Quế Châu cũng được lệnh tăng cường mộ binh trữ lương, huấn luyện quân sĩ, trưng thu thuyền buôn vào làm thuyền chiến. Toàn lộ Quảng Tây nước Tống có đến hàng vạn tân binh được tuyển, tập trung huẩn luyện ở các thành trì. Triều đình Tống dự định sẽ gom số tân binh miền nam Tống và số quân thiện chiến miền bắc Tống để tấn công Đại Việt.
Để yên ổn ở biên thùy phía bắc, rảnh tay ở phía nam, vua Tống đã theo lời Vương An Thạch chấp nhận cắt đất 700 dặm ở Hà Đông cho nước Liêu. Vương An Thạch cũng lên kế hoạch lôi kéo Chiêm Thành, vương quốc Khmer vào một liên minh chống Đại Việt. Tình báo được tăng cường sang nước ta thăm dò tin tức, sai viên chuyển vận sứ Quảng Nam Tây Lộ (tên gọi của Quảng Tây đời Tống) là Đỗ Kỷ báo cáo chi tiết về chính trị, địa thế, dân số, đường sá của Đại Việt. Quan chức Tống ở biên giới cấm không cho dân chúng hai nước qua lại buôn bán nữa. Quảng Tây kinh lược sứ Thẩm Khởi của Tống còn cho người sang chiêu dụ các tù trưởng ở các châu động biên giới Đại Việt. Nước Tống một mặt đẩy mạnh quá trình chuẩn bị xâm lược, một mặt lại hết sức đề phòng kế hoạch sẽ bị lộ khiến Đại Việt có sự đề phòng. Tuy nhiên hai điều này vốn mâu thuẫn nhau nên tình báo của Đại Việt đã sớm biết được ý đồ của nước Tống. Vì hoạt động khiêu khích quá lộ liễu mà Thẩm Khởi đã bị vua Tống bãi chức, cho Lưu Di lên thay. Đến lượt mình, Lưu Di vẫn đẩy mạnh những việc mà Thẩm Khởi đã làm càng khiến cho kế hoạch xâm lược của Tống thêm bại lộ. Viên quan giữ thành Ung Châu là Tô Giám đưa thư cho Lưu Di bảo rằng “chớ làm những sự khiêu khích giặc”. Lưu Di không nghe theo, lại trách Giám bàn nhảm và cấm Giám không được bàn nữa.
Nhìn chung, tuy chính sách của vua tôi nước Tống có nhiều đều bất nhất nhưng tựu chung vua Tống đã quyết chí đánh chiếm nước ta. Vấn đề chỉ là nhanh hay chậm, sự chuẩn bị tới đâu mà thôi. Thời gian càng lâu, sự tập trung binh lực và của cải đổ vào cuộc chiến sẽ càng lớn. Cho đến năm 1075, nước Tống đã có những kho tàng, những trạm tiền tiêu lợi hại ở vùng Quảng Tây, đặc biệt là ba căn cứ Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu tạo thành một thế liên hoàn. Từ đây, tuyến đường xâm lược đã rộng mở cả thủy lẫn bộ tiến vào Đại Việt.

Trước khi phạt Tống, Lý Thường Kiệt nam chinh đại phá Chiêm Thành

   Trong bối cảnh nước Tống đang ráo riết chuẩn bị xâm lược từ phía bắc, thì quân Chiêm Thành lại đánh phá dữ dội phía nam. Nước Đại Việt lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch...

Chiêm Thành là một đất nước của người Chăm nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam ngày nay, từng là một nước có nền văn minh phát triển cao. Dân nước này sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp và nghề biển. Họ là những nông dân, ngư dân, thương nhân và cướp biển. Quan hệ giữa hai nước Chiêm – Việt vốn từ lâu rất phức tạp. Chiêm Thành là một nước có truyền thống đối ngoại rất hiếu chiến, đối với lãnh thổ người Việt họ vẫn luôn nhòm ngó xâm lấn để cướp bóc và bành trướng. Nhưng kể từ thời vua Lê Hoàn trở đi, thế lực người Việt đã vươn lên mạnh mẽ lấn lướt người Chăm. Chiêm Thành khi thế yếu thì chấp nhận triều cống Đại Cồ Việt hay về sau là Đại Việt, nhưng hễ mạnh lên lại thường tấn công quấy nhiễu.
Người Việt cũng tỏ ra không hề khoan nhượng. Chỉ với thời gian tái lập quốc gia không lâu, từ thế kỷ thứ 10 đến nửa cuối thế kỷ 11, người Việt đã nhiều lần đánh bại và tàn phá các kinh đô của người Chăm, bắt hoặc giết các vua Chăm. Vua Lê Hoàn từng  giết vua Paramesvaravarman I (Bề Mi Thuế),  tàn phá kinh đô Indrapura (Đồng Dương) vào năm 982.
Các đời vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông đều có chiến tranh với Chiêm Thành và thường là quân Việt giành phần thắng. Năm 1020 tướng Chiêm Thành là Bố Lệnh mang quân tấn công Đại Việt, vua Lý Thái Tổ sai thái tử Lý Phật Mã và tướng Đào Thạc Phụ đem quân chống lại. Quân Chiêm Thành bị đánh bại và chết đến quá nửa, tướng Bố Lệnh bị giết. Năm 1044 người Chăm bại trận trước cuộc tấn công của quân đội vua Lý Thái Tông. Vua Chiêm Thành là Jaya Sinhavarman II (Sạ Đẩu) tử trận cùng với 3 vạn quân, 5.000 người Chiêm Thành bị bắt, Quân Việt thừa thế chém giết dân Chiêm Thành không kể xiết.
Tình cảnh đến mức vua Lý Thái Tông thấy thương xót mà hạ lệnh: "Kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha". Kinh đô mới của người Chiêm là Vjiaya (Phật Thệ) cũng bị chiếm đóng một thời gian cho đến khi quân Việt chủ động rút lui. Đến năm 1069, vua Lý Thánh Tông lại đánh chiếm được kinh đô Vjiaya, bắt sống vua Rudravarman III (Chế Củ) cùng toàn bộ hoàng gia và nhiều tù binh, buộc vị vua này phải cắt đất ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý (thuộc Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) để chuộc mạng. Ba châu này vốn là đất cũ của nước Văn Lang thưở xưa, đã trở thành lãnh thổ của Chiêm Thành trong thời Bắc thuộc.


Các cuộc chiến Việt – Chiêm được sử sách người Việt ghi chép đều nói nguyên nhân do phía Chiêm Thành khơi màu trước bằng những vụ cướp phá biên giới. Có thể hiểu điều này, vốn nước Chiêm Thành thường có tập quán cướp biển, bắt người để buôn bán nô lệ. Lại thêm nước Chiêm Thành đánh nhau với người Việt thường bị thua nên hễ thế nước mạnh lên là lập tức tổ chức đánh cướp người Việt hòng báo thù.
Kể từ lúc vua Rudravarman III cắt đất cho Đại Việt để chuộc thân, ông đã mất uy tín để lãnh đạo đất nước. Các sứ quân nổi lên cát cứ khắp nước Chiêm Thành. Vua Rudravarman III bị xua đuổi và phải lưu vong sang Đại Việt. Vào năm 1074, một hoàng thân xứ Panduranga nước Chiêm Thành tên là Thăn lên ngôi vua, lấy hiệu là Harivarman IV, chấm dứt thời kỳ loạn lạc. Harivarman IV là người có xuất thân đặc biệt, với cha là người của dòng tộc Cau, mẹ lại là người dòng tộc Dừa. Đây là hai dòng quý tộc lớn nhất của nước Chiêm Thành vẫn thường hay cạnh tranh với nhau.
Vì có xuất thân như vậy, cùng với tài năng của mình mà Harivarman IV đã thu phục được các quý tộc, đoàn kết dân chúng Chiêm Thành. Chỉ trong một thời gian ngắn (1074 – 1075), nước Chiêm Thành đã khôi phục lại sức mạnh của mình. Kinh đô Vjiaya và các đền đài bị tàn phá trong các cuộc chiến tranh được sửa sang lại, nền kinh tế Chiêm Thành được khôi phục dưới sự cai trị của vị vua mới. Vua Harivarman IV đã chủ động kết thân với nước Tống, ông gởi cống phẩm, xin mở rộng buôn bán với Tống và được nước Tống chào đón nhiệt tình. Người Chiêm Thành nhờ đó mà có được nguồn nhập khẩu lương thực mới và nguồn ngựa chiến.
Vua Harivarman IV nuôi chí báo thù Đại Việt. Có được đồng minh và đối tác thương mại mới, trong năm 1075 Chiêm Thành lập tức cắt đứt quan hệ với Đại Việt, ngưng triều cống, tung quân đánh phá ba châu Ma Linh, Bố Chính, Địa Lý mà vua Rudravarman III đã chính thức cắt nhượng cho Đại Việt năm 1069. Trong bối cảnh nước Tống đang ráo riết chuẩn bị xâm lược từ phía bắc, thì quân Chiêm Thành lại đánh phá dữ dội phía nam. Nước Đại Việt lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch.
Dấu tích kinh đô Chiêm Thành
Mùa thu năm 1075, Thái úy Lý Thường Kiệt đã mang đại quân vào nam để đánh Chiêm Thành. Phía Chiêm Thành biết quân Đại Việt đông, thiện chiến và trang bị tốt nên chủ động tránh những trận giao chiến lớn. Quân Đại Việt đã đẩy lui được quân Chiêm Thành ra khỏi biên giới nhưng không gây được thiệt hại đáng kể cho quân Chiêm. Lý Thường Kiệt không dám đưa quân tiến sâu và đất Chiêm Thành như những lần viễn chinh trước của người Việt, vì ông hiểu rằng có một kẻ thù nguy hiểm hơn rất nhiều đang rình rập ở phía bắc. Một bài toán khó được đặt ra với vị Thái úy nước Đại Việt.
Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt cho tổ chức lại bộ máy chính quyền vốn còn sơ sài ở các châu mới sáp nhập, đổi tên châu Ma Linh thành Minh Linh, châu Địa Lý đổi thành châu Lâm Bình. Ông sai người vẽ lại bản đồ chi tiết ba châu Minh Linh, Bố Chính, Lâm Bình. Các dân chúng dũng cảm được chiêu mộ đến để khai khẩn đất đai. Vốn ngay từ thế kỷ X, cư dân người Việt và người Chăm đã chung sống với nhau trên vùng Ma Linh, Bố Chính, Địa Lý nhưng mật độ vẫn còn thưa thớt.
Nay với việc tổ chức di dân quy mô lớn, Lý Thường Kiệt đã khiến số dân người Việt trở nên áp đảo so với người Chăm và làm cho mật độ dân cư vùng này dày hơn, tạo điều kiện cho việc cai trị và phòng thủ lâu dài của chính quyền Đại Việt. Ngoài những người dân nghèo tham gia vào cuộc khai khẩn vùng lãnh thổ mới còn có các thành phần tù tội bị lưu đày, các binh lính trá hình. Mọi việc được gấp rút sắp xếp đặt xong trong một quãng thời gian ngắn, ngay trong cuối thu năm 1075 Lý Thường Kiệt đem đại quân về bắc để chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu mới, sau khi để lại một phần quân lực đồn trú ở biên thùy phía nam.
Mối nguy Chiêm Thành được giải tỏa ít nhiều đối với Đại Việt. Nhưng với binh lực vẫn còn gần như nguyên vẹn và ý chí báo thù, đội quân của vua Harivarman IV nước Chiêm Thành vẫn như mũi dao hiểm chực chờ đâm sau lưng nước Đại Việt.

Chỉ có 7 vạn quân, Lý Thường Kiệt vẫn đánh phủ đầu 100 vạn quân Tống

   Trong thế bị dồn vào chân tường, quân đội Đại Việt thời Lý Nhân Tông chuẩn bị làm một việc mà đa phần người Tống khó có thể ngờ được

Trước sự khiêu khích và chuẩn bị xâm lược của Tống, triều đình nước Đại Việt đã ráo riết nghe ngóng và chuẩn bị nhiều biện pháp để đề phòng. Trong thời đại mà thông tin liên lạc còn hạn chế, từ việc xác minh rõ dã tâm của kẻ địch đến việc tìm biện pháp đối phó là không hề đơn giản mà phải dựa trên một nền tảng tình báo, thông tin kịp thời.
Khi đó, vua Lý Nhân Tông còn nhỏ, trọng trách điều hành đất nước nằm trong tay Ỷ Lan Linh Nhân Hoàng thái hậu và Thái úy Lý Thường Kiệt. Lý Thường Kiệt tuy là người tài danh bậc nhất đương thời và cũng là một trong những nhân vật kiệt xuất nhất sử Việt nhưng tài năng xuất chúng thiên về quân sự, không phải là người kiệt xuất về kinh tế. Còn về Linh Nhân Hoàng thái hậu là một người thông minh và có tầm nhìn, trước đây khi còn là Ỷ Lan Nguyên Phi dưới triều Lý Thánh Tông đã nổi tiếng về tài trị quốc an dân. Nhưng thực ra công lao đó ngoài tài năng của Ỷ Lan còn có phần trợ giúp đắc lực của một nhân vật mà tài đức cũng được xếp hàng đầu nước Đại Việt thời bấy giờ, đó là Thái sư Lý Đạo Thành. Ông là lão thần giữ chức Thái sư trong suốt thời kỳ trị vì của vua Lý Thánh Tông, nổi tiếng về tài kinh bang tế thế, thường được vua giao trông coi chính sự những lúc vua bận đi đánh dẹp. Uy vọng của Lý Đạo Thành rất lớn. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục triều Nguyễn nhận xét : “Đạo Thành là người thẳng thắn, mỗi khi dâng tấu sớ thì thể nào cũng nói đến sự lợi hay hại ở dân gian. Đối với quan lại nào là người hiền tài, ông đều cất dùng. Đời bấy giờ rất kính trọng ông”.
Trong cuộc đổi ngôi và tranh chấp quyền lực đầu thời vua Lý Nhân Tông, Lý Đạo Thành đã đứng về phía Thượng Dương Hoàng thái hậu vì theo luân lý Nho giáo. Vị Thái sư đã có nhiều động thái trái ý với Linh Nhân Hoàng thái hậu. Vì vậy sau khi Linh Nhân Hoàng thái hậu đắc thắng trong cuộc tranh quyền, bà đã tìm cách loại bỏ Lý Đạo Thành khỏi triều chính bằng cách điều đi trấn giữ ngoài biên. Ngay trong năm 1073, Lý Đạo Thành bị giáng chức làm Tả gián nghị đại phu, tri châu Nghệ An. Bấy giờ tuy lãnh thổ nước Đại Việt đã kéo dài tới châu Ma Linh (Quảng Trị), nhưng vùng được coi là trung châu vẫn chỉ là đồng bằng sông Hồng. Nghệ An vẫn là vùng biên thùy hẻo lánh. Ngoài Lý Đạo Thành còn có nhiều lão thần về phe của Thượng Dương Hoàng thái hậu cũng bị cho hưu trí hoặc giáng chức. Việc Lý Đạo Thành bị giáng chức đã làm cho nội bộ triều đình Đại Việt lục đục nghiêm trọng.


Tuy thô bạo và đầy mưu mô trong tranh chấp quyền lực, suy cho cùng Linh Nhân Hoàng thái hậu vẫn không đến nỗi là người vô đức. Bà tuy tìm cách loại bỏ các lão thần chống đối nhưng luôn tránh việc giết chóc như nhiều nhà chính trị vẫn làm, chỉ điều đi xa hoặc cho hưu trí, giáng chức, cô lập. Dưới sự điều hành của bà, Đại Việt tiếp tục phát triển ổn định. Sử sách và giai thoại dân gian cho biết rằng về sau Linh Nhân tỏ ra ăn năn với việc giết hại Thượng Dương Hoàng thái hậu cùng 72 tỳ nữ nên cho xây dựng nhiều chùa tháp, thường xuyên lui tới cửa Phật để sám hối, nghe giảng đạo và bỏ nhiều tiền để chuộc thân cho những con gái nhà nghèo bị bán làm nô tỳ.
Dù việc ăn năn này vô nghĩa đối với người đã chết, nhưng cũng cần được ghi nhận. Năm 1074, trước những nguy cơ ngoại xâm đến từ Tống và Chiêm Thành hiện rõ, Linh Nhân Hoàng thái hậu đã cho triệu hồi Lý Đạo Thành về kinh, phong chức Thái phó Bình chương quốc quân trọng sự. Chức danh này là chức Tể tướng thời Lý, đứng đầu hàng quan văn, phụ trách toàn bộ về nội trị (trừ quân đội). Đây là hành động vừa mang tính thiết thực, chọn đúng người đúng việc vừa mang tính hòa giải của Linh Nhân Hoàng thái hậu. Ngoài ra, bà còn xuống chiếu trọng dụng trở lại các vị lão thần trái ý lúc trước. Động thái hòa giải của Linh Nhân đã được Lý Đạo Thành đáp lại. Ông đã hết lòng phò tá nhà vua mới. Vậy là bộ ba quyền lực bao gồm Ỷ Lan Linh Nhân Hoàng thái hậu, Thái úy Lý Thường Kiệt, Thái phó Lý Đạo Thành đã đồng lòng phò tá vị vua nhỏ Lý Nhân Tông. Nhờ sự hòa giải quan trọng này, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố vững chắc trước những thử thách lớn.
Tình hình ở biên cương phía bắc ngày một nghiêm trọng. Quan lại nước Tống hết sức dùng tiền bạc, lời lẽ dụ dỗ các tù trưởng ở biên giới phía Đại Việt theo Tống. Năm 1073, tù trưởng châu Ân Tình (thuộc Bắc Cạn ngày nay) tên là Nùng Thiện Mỹ nghe lời dụ dỗ của tri châu Thẩm Khởi nước Tống, đem 6.000 người theo Tống. Thẩm Khởi lại chiêu dụ cả tù trưởng Lưu Kỷ ở châu Quảng Nguyên, một người nắm giữ quân lực mạnh và đóng giữ vị trí trọng yếu. Trong năm 1073, Lưu Kỷ suýt nữa đã theo hàng nước Tống nhưng vua Tống Thần Tông không dám nhận.
Lý do là bởi vì Tống tuy muốn đánh nước ta nhưng vẫn chưa chuẩn bị được lực lượng, lại vướng phải những rắc rối ở biên thùy phía bắc với nước Liêu, chiến tranh Tống – Thổ Phồn vẫn chưa dứt. Vua Tống biết Lưu Kỷ là viên quan sát của Đại Việt ở biên thùy, đóng giữ vị trí trọng yếu. Nhận Lưu Kỷ chẳng khác nào tuyên chiến với Đại Việt. Thẩm Khởi hành động quá lộ liễu nên bị vua Tống bãi chức. Lưu Di lên thay làm Kinh lược sứ Quảng Tây. Vua Tống che mắt Đại Việt bằng việc cách chức vị viên quan hiếu chiến nhưng lại thay thế bằng một viên quan hiếu chiến khác.
Năm 1073, nước Đại Việt chưa thể nhận diện rõ dã tâm xâm lược của Tống. Triều đình Đại Việt vẫn gởi những thư từ ngoại giao phàn nàn về việc cắt đứt thông thương đến vua Tống nhưng các quan chức biên giới Tống không thèm chuyển thư. Lưu Di vẫn làm những việc đóng chiến thuyền, trưng thu thuyền buôn vào thủy quân, cấm dân hai nước buôn bán. Từ năm 1073 đến 1075, đã có nhiều tin tức và đồn đoán về việc nước Tống có ý định tấn công Đại Việt.Nhất là việc các thành trì phía nam nước Tống tích cực mộ binh và huấn luyện. Có người Tống là Tư Bá Trường vì tư lợi mà ngầm viết thư cho vua Lý Nhân Tông tố giác ý định xâm lược, xui quân Đại Việt đánh trước và xin làm nội ứng.Những việc đó đã làm cho phía Đại Việt càng cảm nhận rõ hơn về chiến tranh đang đến gần.
Đại Việt cho tăng cường quân đội ở gần biên giới để đề phòng. Đầu năm 1075, triều đình Đại Việt sai người vượt biển đưa thư cho vua Tống (vì các quan lại biên giới trên bộ không chuyển thư nên phải đi vòng đường biển để đưa thư) đòi trả bọn Nùng Thiện Mỹ và những người phản Việt theo Tống, vua Tống không trả lời. Phía ta lại tiếp tục gởi một số thư từ nữa những Lưu Di dấu thư không thèm chuyển đi, y lại càng thả sức dụ dỗ dân chúng vùng biên giới.Bằng những dữ liệu như vậy cùng với các tin tức thám báo, phía Đại Việt đã không còn nghi ngờ gì nữa về âm mưu xâm lược của nước Tống.
Nhận biết rõ ý đồ của nước Tống, Thái úy Lý Thường Kiệt đã tâu lên triều đình:“Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Lời tâu của ông nhận được sự tán thành của vua và các triều thần.Năm 1075, ngay sau khi đi tuần biên giới phía nam chống quân Chiêm Thành trở về, Lý Thường Kiệt bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cuộc Bắc chinh. Lý Thường Kiệt lĩnh chức Đại nguyên soái, thống lĩnh quân đội chuẩn bị một cuộc tấn công phủ đầu quy mô lớn đánh vào nội địa nước Tống. Thời bấy giờ, tổng quân số thường trực nước Tống khoảng chừng 100 vạn quân, còn quân đội thường trực nước Đại Việt có khoảng 7 vạn quân. Trong thế bị dồn vào chân tường, quân đội Đại Việt thời Lý Nhân Tông chuẩn bị làm một việc mà đa phần người Tống khó có thể ngờ được: Một đất nước nhỏ bé dám chủ động tấn công một đế chế đông dân, có lãnh thổ lớn hơn gấp hàng chục lần và quân đội thường trực cũng đông hơn mười mấy lần.

Lý Thường Kiệt phạt Tống, tấn công toàn biên giới, chém tướng phá đồn

   Nắm thời cơ, vào tháng 11.1075 bộ binh Đại Việt tấn công chớp nhoáng trên toàn tuyến biên giới. Các trại Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Tây Bình của Tống nằm gần biên giới lần lượt bị chiếm nhanh chóng

Để bẻ gãy cuộc xâm lược của nước Tống ngay từ trong trứng nước, triều đình Đại Việt đã quyết định hành động theo kế hoạch của Thái úy Lý Thường Kiệt mở một cuộc tấn công phủ đầu quy mô lớn vào đất Tống. Mục tiêu cụ thể của cuộc tấn công này chính là ba thành Ung Châu (thuộc Nam Ninh, Quảng Tây ngày nay), Khâm Châu, Liêm Châu (thuộc Quảng Tây ngày nay). Đó là những điểm tập kết lương thảo, khí giới, nhân lực của quân Tống dành cho cuộc xâm lược Đại Việt, cũng là những đầu mối giao thông quan trọng trên tuyến đường vận chuyển của nước Tống về phía nam. Chính Thái úy Lý Thường Kiệt là người được giao quyền tổng chỉ huy trong chiến dịch sống còn này.
Thoạt nhìn tương quan lực lượng hai nước, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt vào đất Tống chẳng khác nào tự sát, lấy trứng chọi đá. Dân số ước tính của nước Tống thời bấy giờ khoảng 40 triệu người, quân số có tới hơn 100 vạn quân thường trực. Trong khi đó dân số Đại Việt thời này ước tính khoảng 4 triệu người, quân thường trực có chừng 7 vạn. Nhưng xét kỹ sẽ thấy, bấy giờ năm 1075 quân đội nước Tống đa phần lính tráng tinh nhuệ vẫn đóng ở biên thùy phía bắc để phòng thủ hai nước Liêu, Hạ. Số quân ở phía nam kém hơn, và cũng ít hơn. Quân số toàn lộ Quảng Tây của Tống ít hơn quân số Đại Việt.


Nước Tống rộng lớn, để tập trung được số quân đông cho các trận chiến cần phải có đủ thời gian di chuyển trên những quãng đường dài để tập họp. Kể cả thông tin liên lạc từ lộ Quảng Tây tới triều đình Tống và ngược lại cũng là cả một vấn đề lớn. Tin tức từ biên giới Tống – Việt về đến Biện Kinh nước Tống thời bấy giờ trung bình mất khoảng một tháng rưỡi. Nếu gặp phải những đội quân cơ động nhanh, dùng chiến thuật tốc chiến để diệt từng điểm một trên lãnh thổ thì quân Tống ắt sẽ gặp cảnh khốn đốn vì thông tin liên lạc chậm và không kịp điều quân cứu viện. Đó chính là chìa khóa để nước nhỏ có thể đánh thắng, thậm chí thôn tính nước lớn.
Lý Thường Kiệt làm tổng chỉ huy toàn đội quân Bắc chinh đông tới khoảng 10 vạn quân, xuất quân vào tháng 10.1075. Trong đó bộ binh gồm phần lớn là quân các châu động phía Bắc do tướng Tông Đản làm tổng chỉ huy, dưới trướng Tông Đản là các tù trưởng ở các châu động biên giới phía bắc Đại Việt. Bao gồm Lưu Kỷ tri châu Quảng Nguyên, Hoàng Kim Mãn tri châu Môn, Thân Cảnh Phúc tri Lạng Châu, Vi Thủ An tri châu Tô Mậu… Mỗi tù trưởng đều có quân bản bộ chừng vài ngàn. Khi có chiến sự, triều đình sẽ điều động họ tham chiến. Các tù trưởng đều tự cầm quân của mình, phối hợp với nhau dưới trướng một tổng chỉ huy chung. Tổng binh lực cánh bộ binh chừng 4 vạn quân, tập kết ở các châu Quảng Nguyên, châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu phụ trách tấn công biên giới Tống từ phía Tây Nam. Quân đội các châu động đi đánh trận mang cả vợ con đi theo. Cả đoàn người vừa quân lính vừa gia đình đông đến 6 – 7 vạn người, đánh đến đâu cướp kho lương của địch làm lương ăn đến đấy.
Chủ lực là quân chính quy triều đình gồm khoảng 6 vạn quân do Lý Thường Kiệt đích thân chỉ huy đóng ở châu Vĩnh An với một đội chiến thuyền hùng hậu. Thuyền chiến dùng trong chiến dịch này là loại thuyền biển to lớn, chở theo cả tượng binh. Cánh quân này phụ trách tấn công từ phía ven biển các châu Khâm, Liêm. Quân đội Đại Việt thời Lý tuy thời bình không đông, nhưng khi có chiến tranh thì lập tức điều động được một số lượng lớn quân lính. Đó là nhờ chính sách Ngụ Binh Ư Nông nổi tiếng. Các trai tráng trong nước đều được thống kê hộ tịch gọi là các Hoàng nam. Các Hoàng nam khỏe mạnh nhất sẽ sung quân nhưng vẫn ở nhà làm ruộng và luyện tập trong thời bình, chỉ giữ lại một số quân nhất định trong đội ngũ. Số quân làm ruộng sẽ được điều động khi có chiến tranh.

Dân chúng Đại Việt thời Lý rất thượng võ, người dân đa phần tráng kiện. Khi có chiến tranh lớn đe dọa đến tồn vong của đất nước thì tất cả Hoàng nam sẽ nhập ngũ, số dân chúng còn lại cũng tổ chức thành các đội dân binh hay giúp việc hậu cần. Nhờ chính sách hộ tịch chặt chẽ và chính sách quân ngũ ưu việt, dân tộc Việt thời Lý thực sự là một dân tộc chiến binh. Thời điểm Lý Thường Kiệt tấn công phủ đầu nước Tống, cấm quân tinh nhuệ bậc nhất của Đại Việt không tham chiến mà nhận nhiệm vụ trú phòng tại kinh thành Thăng Long vì quân vương còn nhỏ. Tuy vậy đa phần quân lính trong số 6 vạn quân theo Lý Thường Kiệt bắc chinh cũng là những quân lính dày dặn trận mạc, chất lượng hơn hẳn quân Tống ở biên thùy phía nam.
Đầu tiên, cánh quân của tù trưởng Vi Thủ An từ Tô Mậu được lệnh tấn chiếm trại Cổ Vạn của Tống vào ngày 27.10.1075 mở màn cho chiến dịch. Trại này nhanh chóng bị chiếm. Đó là bước thăm dò và là mồi nhử quân Ung Châu rời thành. Quân Tống thấy quân châu động chiếm trại, đã điều quân đồn trú từ thành Ung Châu xuống các trại biên giới để phòng bị. Nhưng mặc khác vì thấy quân tấn công chỉ là quân của tù trưởng, phía Tống vẫn cho rằng đây chẳng qua là vụ đánh phá mang tính cục bộ ở biên giới. Vua Tống hạ chỉ cho quan lại biên giới không làm lớn chuyện hòng che giấu âm mưu chuẩn bị đánh chiếm nước ta.
Nắm thời cơ, vào tháng 11.1075 bộ binh Đại Việt tấn công chớp nhoáng trên toàn tuyến biên giới. Các trại Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Tây Bình của Tống nằm gần biên giới lần lượt bị chiếm nhanh chóng. Quân Tống bị thiệt hại nặng nề, hầu như không còn quân che chắn hướng Tây Nam cho thành Ung Châu. Các tướng giữ trại của Tống là Lâm Mậu Thăng, Tô Tá, Ngũ Cử, Quách Vĩnh Nghiêm đều bị giết. Tông Đản cho hội quân thẳng tiến thành Ung Châu như vào chốn không người. Cánh quân của Tông Đản vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm cứ các châu động biên thùy làm bàn đạp tấn công thành Ung Châu, vừa dẫn dụ và tiêu diệt một phần lớn sinh lực quân đồn trú từ thành Ung Châu kéo tới. Ngoài ra, cánh quân này cũng hoàn thành nhiệm vụ nghi binh, đánh lạc hướng quân Tống. Tạo điều kiện cho đại quân của Lý Thường Kiệt đánh úp từ phía Đông Nam thuận lợi

Lý Thường Kiệt vượt Thập Vạn đại sơn, bắt sống hàng ngàn tù binh Tống

   Cùng với cánh quân của Tông Đản ở phía Tây Nam, cánh quân của Lý Thường Kiệt từ Khâm Châu vượt qua Thập Vạn Đại Sơn thẳng tiến thành Ung Châu từ phía Đông Nam. Trước khi tiến quân ông hạ lệnh giết hết 8.000 tù binh vì không đủ quân trông coi số tù binh này.



Trong khi các hướng quân Tống đang dồn sự chú ý về phía cánh quân phía Tây của Tông Đản thì giữa tháng 11.1075 Lý Thường Kiệt bất ngờ xuất kích từ châu Vĩnh An, dùng binh thuyền vượt biển đổ bộ lên cảng Khâm. Ngày 20.11.1075 Quân Đại Việt nhanh chóng tràn vào thành Khâm Châu bắt quan giữ thành Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái cùng toàn bộ thuộc hạ, thu nhiều của cải. Khi quân của Lý Thường Kiệt tấn công vào thành, Trần Vĩnh Thái vẫn chưa hay biết mà đang bày rượu uống. Thành Liêm Châu bây giờ mới phòng bị thì đã muộn, ba ngày sau Liêm Châu cũng bị hạ gọn gàng bởi lực lượng Đại Việt đông hơn gấp nhiều lần. Quan giữ thành là Lỗ Khánh Tôn cùng thuộc hạ bị giết chết. Quân Đại Việt bắt hơn 8000 tù binh tại thành Liêm Châu, ép làm khuân vác thu gom của cải đem xuống thuyền. Vậy là cánh quân của Lý Thường Kiệt chiếm trọn hai châu quan trọng của Tống là Khâm, Liêm mà chẳng thiệt hại gì lớn.
Cùng lúc với cuộc tấn công bằng đường biển, một cánh quân chính quy triều đình cũng xuất phát từ châu Vĩnh An theo đường bộ tấn chiếm các trại Như Hồng, Như Tích, Để Trạo của Tống và nhanh chóng chiếm lĩnh các trại này, các chúa trại phía Tống đều bị giết. Mọi thứ diễn ra đúng như toan tính của Thái úy Lý Thường Kiệt.
Trang phục của quân nhà Lý
Chiến cuộc Ung – Khâm – Liêm diễn ra vô cùng chớp nhoáng và nhanh chóng nhưng triều đình Tống vẫn chưa có hành động gì nhiều do thông tin chậm. Trong khi quân Tống đã bị đánh tan tác ở Khâm Châu, Liêm Châu và tuyến biên giới Ung Châu trong tháng 11.1075 thì đến đầu tháng 12.1075 triều đình nhà Tống mới nhận được tin quân Đại Việt hội quân gần biên giới. Cứ thế các tin tức thất thủ Khâm Châu, Liêm Châu … về đến triều đình Tống đều phải mất khoảng thời gian một tháng sau khi sự việc diễn ra. Nhờ có những sự chậm trễ này mà quân ta có thêm phần lợi thế.
Cùng với cánh quân của Tông Đản ở phía Tây Nam, cánh quân của Lý Thường Kiệt từ Khâm Châu vượt qua Thập Vạn Đại Sơn thẳng tiến thành Ung Châu từ phía Đông Nam. Trước khi tiến quân ông hạ lệnh giết hết 8.000 tù binh vì không đủ quân trông coi số tù binh này. Đồng thời ông cho một cánh quân từ Liêm Châu tiến về phía Đông Bắc đánh chiếm Bạch Châu, Dung Châu để làm nơi trú chân đề phòng viện binh của Tống, giết chết hàng loạt quan quân giữ thành. Tuy mục tiêu chính yếu tiếp theo của cuộc tiến công là hạ thành Ung Châu nhưng với việc tiến chiếm các thành Bạch Châu, Dung Châu thì quân Đại Việt càng làm cho sự phán đoán của quân Tống thêm mù mờ.
Người Tống vừa lo sợ quân Đại Việt chiếm Ung Châu, vừa ngại Lý Thường Kiệt sẽ tiến quân về phía đông bắc để chiếm các thành trì khác thuộc lộ Quảng Đông. Điều này càng làm cho lực lượng quân Tống thêm phân tán, vua Tống không dám điều quân từ các thành trì lộ Quảng Đông xuống để đánh với quân Đại Việt mà hạ lệnh cho các thành này cố thủ. Một lần nữa quân Tống trúng kế nghi binh của Lý Thường Kiệt. Do đó, quân Đại Việt rảnh tay dốc gần như toàn lực bao vây thành Ung Châu. Nhìn chiến cuộc Ung – Khâm – Liêm sẽ thấy rằng quân Đại Việt luôn áp đảo về quân số tại điểm nóng chiến trường, trong khi đó tổng lực lượng quân Tống ở hai lộ Quảng Tây, Quảng Đông so với quân Đại Việt cũng không  đến mức quá chênh lệch nhưng luôn luôn bị phân tán dẫn đến hoàn toàn bị áp đảo về quân số.
Vậy là cả hai cánh quân Đại Việt đều ra quân đại thắng, thừa thế chẻ tre thẳng tiến thành Ung Châu. Thành này thời bấy giờ nổi tiếng là cứng và chắc, thành cao hào sâu, khí giới tối tân bậc nhất. Cuộc chiến khốc liệt thật sự đang chờ đón đoàn quân Đại Việt.
Sau khi hạ các thành Khâm, Liêm, Bạch, Dung và các điểm phòng thủ tuyến biên giới, hai cánh quân của Tông Đản và Lý Thường Kiệt đã tiến quân bao vây thành Ung Châu . Lo ngại dân chúng nước Tống vì tự tôn dân tộc mà ứng nghĩa ngăn cản quân đội Đại Việt, Lý Thường Kiệt cho soạn thảo các văn bản kể tội triều đình Tống, nêu rõ danh nghĩa xuất quân của Đại Việt gọi là Phạt Tống Lộ Bố Văn rồi cho người niêm yết dọc đường tiến quân. Có nhiều bản Bố Văn khác nhau. Một trong những bản Bố văn điển hình viết :
"Trời sinh ra dân chúng, Vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép "thanh miêu", "trợ dịch", khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thoả cái mưu nuôi mình béo mập.
Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót. Những việc từ trước, thôi nói làm gì!
Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi !"
Một đoạn Bố văn khác thì viết: “Có những dân Giao Chỉ làm phản rồi trốn sang Trung Quốc. Các quan lại dung nạp và giấu đi. Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế Châu không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt bể sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi Quảng Châu cũng không chịu báo. Vì vậy, quân ta tới đuổi bắt dân trốn ấy...”
Lại có đoạn Bố văn tố cáo việc triều đình Tống chuẩn bị đánh Đại Việt: “… Quan coi Quế Châu đã kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao Chỉ…”
Những bản Bố văn truyền ra đem lại nhiều hiệu quả. Đây là đòn dân vận cao tay của Lý Thường Kiệt ngay trên lãnh thổ của nước đối địch. Việc tiến quân được thuận lợi, quân ta chỉ phải đương đầu với quân triều đình Tống mà không vấp phải sự kháng cự tự phát của dân chúng, nhất là các tuyến hậu cần được an toàn.
Hiệu quả của các bố văn được người Việt đời sau kể lại : “Dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam, rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp”.

Lý Thường Kiệt hạ thành Ung châu, xác quân Tống chất cao như núi

   Ngày 1.3.1076, thành Ung Châu bị hạ sau 42 ngày cố thủ. Số người thành Ung Châu bị giết đến 58.000 người

Dù bị bất ngờ và tổn thất nặng nề ở vùng biên thùy phía nam bởi cuộc tấn công của Lý Thường Kiệt, nước Tống vẫn còn tiềm lực rất lớn. Vua Tống và Vương An Thạch bàn nhau dựa vào sự kiên cố của thành Ung Châu để cầm chân quân Đại Việt, rồi cho một đạo quân lớn đi đường khác đánh thẳng vào lãnh thổ Đại Việt. Vương An Thạch thay vua Tống soạn tờ thư chiêu hàng gọi là Thảo Giao Chỉ Chiếu để dùng cho việc khuất phục tinh thần quân dân Đại Việt, cũng là đối đáp lại những lời lẽ của các văn bản Phạt Tống Lộ Bố Văn mà Lý Thường Kiệt đã cho yết bảng dọc đường tiến quân. “Thảo Giao Chỉ Chiếu” có những lời lẽ thể hiện rõ tư tưởng hống hách của nước lớn, ra vẻ bề trên vừa xoa dịu dụ dỗ, vừa đe dọa vũ lực đối với quân dân Việt. Lời chiếu như sau :
“Xét lại nước An Nam đời đời hưởng vương tước, các triều trước đối đãi khoan hậu, khi nào cũng bao dung tha thứ, mãi đến ngày nay. Nay lại xâm phạm thành ấp, sát hại quân dân, đã phạm pháp kỷ thì không thể tha thứ được. Vâng mệnh trời mà chinh phạt, tức là có danh nghĩa. Vậy sai Triệu Tiết sung làm chức An Nam đạo hành dinh, Mã Bộ Quân Đô Tổng Quản Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ, Lý Hiến sung làm chức Phó Sứ, Yên Đạt sung làm chức Mã Bộ Phó Sứ Đô Tổng Quản , thuận theo thời lệnh mà dấy binh đường thuỷ và đường bộ tiến quân. Ý trời tỏ ra giúp thuận, hiện ra những điểm chỉ vẽ rõ ràng.  Người nào biết hối hận, đều giữ khí khái đối địch quân thù, những nơi nào quân vua tới sẽ không tổn hại đến thường dân và tàn sát kẻ bại trận.
Hỡi nhân dân đã lâu ngày sống trong cảnh lầm than, nếu biết khuyên dụ chủ mình nội phụ, xuất chúng qui phục, bắt giặc hiến cống, đem mình hiếu thuận, thì sẽ được thưởng tứ tước lộc, vinh hiển bội phần, những tội lỗi trước đây đều được ân xá. Càn Đức đương còn ấu trĩ, chính lệnh không do y mà ra, khi nào lai triều cũng sẽ được tiếp đãi trọng hậu như trước. Lời ta không sai, chớ có nghe lầm. Gần đây, ta nghe nhân dân bị bóc lột cực khổ, ta đã căn dặn sứ thần truyền đạt ân chiếu của ta, sự tàn bạo và thuế nặng đều được tẩy trừ. Mong rằng một nước chư hầu của ta luôn được yên vui.”
Thành Ung Châu kiên cố và có nhiều quân lương, khí giới do đây là nơi tập kết của cải của nước Tống để đánh Đại Việt. Tô Giám lại là một tướng lão luyện của Tống. Y dùng tài sản phân phát cho dân chúng trong thành, dùng lời khích lệ tinh thần khiến cho cả thành đồng lòng cố thủ. Lý Thường Kiệt vây thành ngót hơn một tháng không thể hạ nổi. Quân Đại Việt nghĩ cách đào hầm xuyên qua hào sâu và tường thành để đột nhập vào trong thành. Quân Ung Châu phát hiện được hầm, Tô Giám cho phóng hỏa đốt ngay miệng hầm khiến quân Đại Việt lại bị thương vong. Quân Đại Việt dùng hỏa công, bắn các loại đạn gây cháy từ máy bắn đá và hỏa tiễn vào trong thành gây nhiều thương vong cho dân chúng và binh lính Tống. Thành Ung Châu bị cháy nhiều nơi, không đủ nước dập lửa.
Trong thành lại bị thiếu nước uống, dân chúng phải uống nước dơ bẩn, dịch bệnh do đó mà bùng phát khiến rất nhiều dân chúng bị chết. Dù vậy tường thành vẫn không hạ được. Đạn từ máy bắn đá thời kỳ này tỏ ra không đủ sức đánh thủng tường thành Ung Châu . Cuối cùng, Lý Thường Kiệt dùng kế thổ công. Ông sai quân lấy đất xúc vào bao, làm đến hàng vạn bao đất rồi bắt tù binh người Tống liều mạng vượt qua mưa tên khiên bao đất xếp dưới chân thành để tạo thành bực thềm. Chẳng mấy chốc đã làm được một đường dốc cao tới mặt thành. Quân Đại Việt theo đó tràn vào thành như nước vỡ bờ, thế không ai địch nổi. Tô Giám vẫn liều chết lãnh đạo quân và dân chúng thành Ung Châu chống cự, khi thấy không còn hy vọng bèn quay về nhà giết hết người nhà tổng cộng 36 người, chôn xác xuống hố rồi tự thiêu chết. Tô Giám liều mình như vậy khiến dân chúng thành Ung Châu cảm kích mà không chịu đầu hàng, họ đã chiến đấu đến cùng trong tuyệt vọng. Tai ương đã ập lên tất cả họ, một cuộc thảm sát đã diễn ra.
Lý Thường Kiệt để hoàn thành cuộc chiến tiêu hao đã hạ lệnh giết tất cả người trong thành. Ngày 1.3.1076, thành Ung Châu bị hạ sau 42 ngày cố thủ. Số người thành Ung Châu bị giết đến 58.000 người. Về phía quân Đại Việt cũng có tổng thiệt hại đến hơn vạn người và một số voi chiến trong chiến cuộc Ung Châu. Trước đây, Tô Giám là người đã từng khuyên Lưu Di, Thẩm Khởi không nên khiêu khích Đại Việt vì sợ quân Đại Việt sẽ tràn sang đánh Tống trước nhưng bị gạt bỏ ngoài tai, lại còn bị khiển trách. Nay quả thật quân ta chủ động tấn công trước, căn cứ chiến lược dùng cho việc xâm lăng là thành Ung Châu phút chốc bị đập tan, hàng vạn quân dân Tống bị giết. Với việc thành Ung Châu bị hạ, ta sẽ thấy mọi toan tính chiến lược của nước Tống về sau đều bị đảo lộn. Dù cuộc tấn công này đối với quân Đại Việt mang mục đích tự vệ chính đáng, cũng phải nói rằng trong số những người nước Tống bị giết có nhiều người oan uổng. Họ cũng như quân dân Đại Việt, là nạn nhân trong tham vọng bá quyền của Tống triều.
Lý Thường Kiệt hay tin quân Tống sắp đưa quân sang đánh Đại Việt, liền chuẩn bị một kế hoạch rút quân hoàn mỹ. Ông sai lấy đá lấp sông Ung Giang, một tuyến đường thủy huyết mạch ở phía nam nước Tống. Để đánh lạc hướng quân Tống trước khi rút về nước, Lý Thường Kiệt phao tin là sắp đem quân đánh Tân Châu. Quan giữ thành Tân Châu là Cổ Cắn Lặc nghe tin bỏ cả ấn tín mà chạy trốn. Quân Đại Việt chủ động rút lui về nước lo chuẩn bị về phòng thủ một cách nhanh gọn. Một số thám tử Đại Việt được phái cải trang thành nhà sư, nạn dân, lái buôn người Tống, đi khắp nơi do thám. Quân Đại Việt đốt trại, thiêu hủy lương thực, phá thành, phá các đồn lũy, mang theo nhiều của cải và tù binh rút về nước. Không một đội quân Tống nào dám đuổi đánh do trúng kế của Lý Thường Kiệt, lo quân ta tiếp tục đánh Tân Châu nên các đội quân chính quy vẫn ở thế thủ. Những của cải không đem theo hết được đều bị quân Đại Việt thiêu hủy. Những tù binh không đem theo được cũng bị giết. Đó cốt là để tàn phá bàn đạp mà nước Tống định dùng cho cuộc xâm lược Đại Việt. Cả một vùng rộng lớn thuộc lộ Quảng Tây tiêu điều. Tổng cộng trong toàn bộ chiến dịch đánh Tống, quân Đại Việt đã giết hơn 10 vạn quân dân Tống.
Khoảng cuối tháng  3.1076 Lý Thường Kiệt đã an toàn rút hết quân về nước. Đội quân thiện chiến đã theo ông bắc phạt không có nhiều thời gian để nghỉ ngơi hay mừng chiến thắng. Bởi mọi người hiểu rằng cuộc chiến sắp tới sẽ còn rất cam go.  Triều đình nhà Lý bắt tay ngay vào việc điều động quân dân Đại Việt chuẩn bị bước vào giai đoạn chiến đấu mới mang ý nghĩa quyết định vận mệnh dân tộc – đón đánh đội quân viễn chinh Tống trên lãnh thổ Đại Việt.

Bị Lý Thường Kiệt phá Ung châu, triều Tống mang vũ khí tối tân nhất đối phó Đại Việt

Kyj binh Tống
   Những vũ khí tối tân nhất của Tống, thậm chí có thể nói là tối tân nhất thế giới thời bấy giờ đều được đưa sang đánh Đại Việt. Trong đó có thể kể đến hỏa tiễn, máy bắn đá, nỏ lớn, pháo thăng thiên…

Khi Lý Thường Kiệt và Tông Đản vây thành Ung Châu, vua Tống nghe theo lời tâu của Vương An Thạch muốn dùng Ung Châu cầm chân quân chủ lực Đại Việt rồi cho một đạo quân khác do Triệu Tiết chỉ huy theo đường khác mà đánh úp Đại Việt. Tiết tiến cử tướng Quách Quỳ, là một danh tướng vùng biên cương Liêu – Hạ tăng cường vào bộ chỉ huy. Khi về kinh nghị sự, vua Tống Thần Tông cho Quách Quỳ làm chánh tướng, chức danh đầy đủ là Tuyên huy nam viện sử, An Nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quản chiêu thảo sứ. Triệu Tiết được phong làm Phó sứ. Yên Đạt được phong Mã bộ phó sứ đô tổng quản. Vua Tống theo lời tâu của Quách Quỳ, điều quân ở vùng Hà Đông (Thiểm Tây) giáp nước Hạ làm quân nòng cốt cho cuộc xâm lược. Trước đó, vua Tống định cho Lý Hiến làm phó tướng, đồng thời giữ nhiệm vụ giám quân nhưng bị quần thần phản đối do Lý Hiến là hoạn quan, Lý Hiến lại tranh cãi xích mích với Triệu Tiết nên bị bãi chức. Khi dặn dò công việc với Quách Quỳ, vua Tống đã tỏ rõ ý định thôn tính: “Sau khi bình Giao Châu, sẽ đặt châu huyện như nội địa”.
Rốt cuộc thành Ung Châu bị hạ, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân an toàn về nước, kế đánh úp Đại Việt thành ra phá sản. Nhưng Tống là một nước lớn mạnh, đông đúc gấp hàng chục lần Đại Việt, tự nhận là thiên triều thì dễ gì bỏ qua được.
Được tin Ung Châu thất thủ, quyết tâm xâm lược của vua Tống vẫn không đổi. Vua Tống Thần Tông và Vương An Thạch bàn nhau tiếc nuối rằng xưa kia đã không đánh Đại Việt sớm mà để bị đánh trước. Vương An Thạch than với vua Tống:“Đáng lẽ, ta phải đánh khi Càn Đức mới lập. Bấy giờ, các khê động đều muốn nội phụ. Nếu lúc ấy ta muốn đánh Giao Chỉ, thì chỉ cần mộ 2 vạn tinh binh, chọn 5 - 6 tướng vừa, là có thể làm xong chuyện. Tôi trộm nghĩ rằng nếu bấy giờ ta đoán được sự ngày nay chúng không tuân lệnh, thì ta đã có tiếc gì mà không cử binh. Thế mới biết rằng việc bốn cõi biên thuỳ, nếu không lo sự lớn hơn sự bé, làm việc khó trước việc dễ, thì đến nhọc quân tốn của.”
Lời tâu trên thể hiện sự mù mờ về tin tức ở Đại Việt của Vương An Thạch và vua tôi nước Tống. Họ thứ nhất là đã đánh giá quá thấp sức mạnh Đại Việt, thứ hai là không hiểu rằng nước Tống bị Đại Việt tấn công cũng chính vì âm mưu xâm lược Đại Việt của Tống. Vua tôi Tống vẫn không hiểu được bản chất của cuộc tấn công mang tính đánh phủ đầu mà Lý Thường Kiệt đã vạch ra. Họ vẫn tưởng tượng về một cuộc cướp phá, diễu võ giương oai, hay thừa cơ chiếm cứ lãnh thổ. Tuy mù mờ như thế, nhưng khi thấy rõ sức mạnh kinh hồn của quân Đại Việt trong cuộc tấn công do Lý Thường Kiệt chỉ huy thì Tống triều tỏ ra rất thận trọng. Chính vì vậy mà bất chấp việc cả một vùng tiền đồn rộng lớn miền nam nước Tống bị tàn phá nghiêm trọng, Tống vẫn cố gắng ở mức cao nhất để huy động một đạo quân thiện chiến đông đảo, với trang bị mạnh và hậu cần quy mô lớn.
4,5 vạn quân đã từng theo Quách Quỳ chinh chiến nhiều năm ở biên thùy Tống – Hạ được điều động. Số quân này là những quân lính tinh nhuệ bậc nhất trong toàn quân đội nước Tống bấy giờ, được biên chế làm 9 Tướng (Tướng ở đây là một đơn vị quân đội của nước Tống thời bấy giờ, mỗi Tướng gồm 5.000 quân). Trong số này có 1 vạn kỵ binh, là tinh túy của Tống cũng như nhiều quốc gia trung đại khác. Theo cách tính toán phổ biến đương thời thì khi chiến đấu theo đội ngũ, một đơn vị kỵ binh có thể đánh trực diện với số bộ binh đông hơn 5 – 7 lần. Các vùng khác của nước Tống cung cấp chừng 6,5 vạn bộ binh, phần lớn là từ các lộ nằm trên dọc đường tiến quân từ Biện Kinh tới biên giới Tống – Việt. Số quân này gộp với 4,5 vạn quân nòng cốt lấy từ biên thùy Tống – Hạ tạo thành một đội quân đông 10 vạn lính chiến đấu.
Ngoài lính chiến đấu, còn có khoảng 20 vạn dân phu được điều động. Những dân phu khỏe mạnh ngoài nhiệm vụ phục dịch, còn là lực lượng dự phòng dùng cho chiến đấu. Để phối hợp, nước Tống còn huy động một đạo thủy quân với hàng trăm thuyền chiến chủ yếu là thuyền buôn trưng thu trong dân hoán cải lại thành chiến thuyền, cùng với một số chiến thuyền đóng một cách vội vàng. Binh lính của đạo thủy quân này được tuyển mộ từ những dân thuyền chài ven biển. Đạo thủy quân này có tổng quân số chừng 5 vạn quân, do tướng Dương Tùng Tiên làm tổng chỉ huy. Nhiệm vụ được đặt ra cho đạo thủy quân là tiến vào nội địa nước Đại Việt đúng hẹn để phối hợp với bộ binh Tống vượt sông chiếm kinh thành Thăng Long.
Vua tôi Tống bàn nhau: “Trên đường bộ, tiến binh đến kinh thành giặc còn bị cách sông lớn. Người Giao lại giỏi thủy chiến. Sợ rằng thuyền giặc giữ các chỗ hiểm, đại binh ta khó lòng qua được. Rồi đêm đến, giặc xông tới đánh thì việc ta hỏng mất… Vậy xin hạ lệnh cho các ty kinh lược, chuyển vận Quảng Đông phải tuyển thủy binh, chọn những người dũng cảm rồi dạy thủy chiến cho chúng. Sau này sẽ từ Quảng Châu theo bờ bể, chỉ tiến tới Liêm, Khâm, rồi đậu thuyền ở đó đợi. Lúc nào đại binh tiến sẽ hẹn ngày sai thủy quân cùng vào Giao Châu đánh giặc. Thủy quân sẽ tách ra một phần thuyền ghé vào bờ bắc sông để chở đại quân sang”.
Nước Tống thời kỳ này là một nước chú trọng về quân kỵ bộ để phục vụ cho các cuộc chiến tranh liên miên ở biên cương phía tây và phía bắc chống lại các đạo quân du mục và bán du mục Liêu, Hạ nên quân kỵ, quân bộ rất mạnh. Trái lại, thủy quân rất kém cỏi. Thậm chí, Tống không có một lực lượng thủy quân thường trực đúng nghĩa mà phải huy động trong dân khi có sự cần. Vì vậy mà mặc dù đã rất cố gắng gây dựng một cánh quân thủy để phục vụ cuộc xâm lược Đại Việt, thủy quân Tống vẫn kém xa thủy quân Đại Việt về chất lượng. Việc chuẩn bị chiến thuyền chậm trễ so với tiến độ hành quân. Khi đạo bộ binh của Quách Quỳ đã tiến đến Quế Châu (thủ phủ lộ Quảng Tây) vào giữa năm 1076, thủy quân của Dương Tùng Tiên vẫn chưa tập hợp được chiếc thuyền nào. Phải đến cuối năm 1076 thì Dương Tùng Tiên mới tập hợp được thành thuyền bè và quân lính thành đội ngũ.
Song song với việc xây dựng thủy quân, vua Tống còn sai sứ đem của cải và chiếu thư theo thuyền buôn vượt biển cấp tốc sang Chiêm Thành, Chân Lạp (hay còn gọi là đế chế Khmer) để xúi giục hai nước này liên thủ với Tống cùng tấn công Đại Việt. Chiếu thư như sau : “Chiêm Thành, Chân Lạp từ lâu nay bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sư sang đánh Giao Chỉ để phạt tội. Các nước ấy nên thừa cơ hội, hiệp lực mà trừ nó. Ngày nào đánh dẹp xong, Trẫm sẽ ban thưởng cho. Trẫm lại nghe nói rằng nhiều dân nước ấy đã bị Giao Chỉ bắt về. Trong số ấy có cựu vương Chiêm Thành, khó lòng trở về nước. Nên triệu y sang chầu. Trẫm sẽ gia ân cho”. Cựu vương mà trong thư nhắc tới, chính là vua Rudravarman III (Chế Củ) thuở trước, vì bại trận và cắt đất cho Đại Việt mà bị quý tộc nước Chiêm Thành lật đổ, chạy sang Đại Việt ẩn náu. Vốn có dã tâm từ trước, hai nước lại lập tức đồng ý liên minh. Như vậy, Đại Việt không chỉ phải đánh nhau với nước Tống mà phải chiến đấu với cả liên minh Tống – Chiêm – Chân Lạp. Vua Harshavarman III của Chân Lạp gởi sang Chiêm Thành một đạo quân kết hợp với quân Chiêm Thành do vua Harivarman IV đích thân chỉ huy, chuẩn bị dùng thuyền chở quân vượt biển tấn công Đại Việt từ phía nam.
Để chuẩn bị lương thực, hậu cần cho cuộc chiến, vua Tống Thần Tông đã không hề tiếc của. Chỉ trong thời gian quân Tống tập hợp thành đội ngũ và tiến sang biên giới nước Đại Việt, Tống triều đã chi hàng trăm vạn quan tiền để mua lương thực trong dân. Con số hao tốn còn đội lên nhiều lần trong suốt cuộc chiến. Để đảm bảo những yêu cầu mà triều đình đề ra, các quan lại địa phương ra sức vơ vét trong dân chúng.
Vua Tống sai Hàn lâm y quân viện bào chế 57 bài thuốc hoàn trị lam chướng, bệnh tật để mang theo trong quân. Thái y cục cũng được lệnh bào chế 30 bài thuốc trị lam chướng. Ngoài việc lo thuốc thang, vua Tống còn lập đàn cúng bái khi thấy quân lính chưa ra khỏi địa giới nước Tống đã bắt đầu có một số bị bệnh tật. Nhiều chỉ dụ được ban xuống cho tướng lĩnh và quân lính thực hiện các phép vệ sinh trong sinh hoạt. Sở dĩ mặt sức khỏe quân lính được quan tâm kỹ như vậy là bởi quân tinh nhuệ nước Tống chủ yếu ở miền tây và miền bắc nhưng những quân lính này lại không quen thủy thổ phương nam. Còn những dân phía nam nước Tống thì quen thủy thổ hơn nhưng không giỏi chiến trận, lại kém trung thành nên không được tin dùng.
Nước Tống thời kỳ này không quen việc vận chuyển bằng đường biển, chỉ dùng thuyền bè men theo các sông trong nội địa là chính. Khi quân Đại Việt tiến sang tàn phá những cầu đường, lấp sông, phá kho tàng khiến cho việc vận chuyển phục vụ cho chiến tranh của Tống rất khó khăn. Chính điều này làm cho tiến độ chuẩn bị của Tống cho cuộc xâm lược bị chậm trễ rất nhiều. Trong năm 1076, nước Tống đã phải điều động hàng vạn người đắp lại thành Ung Châu, sửa sang lại cầu đường, khai thông lại sông Ung Giang bị quân ta lấp trước đó. Đây có thể coi là một kỳ công của nước Tống để phục vụ cuộc chiến. Những xe cộ, thuyền bè trong nước dọc đường tiến quân được huy động tối đa. Hàng chục vạn phu phải gồng mình khuân vác hàng hóa ở vùng biên giới Tống – Việt. Những vũ khí tối tân nhất của Tống, thậm chí có thể nói là tối tân nhất thế giới thời bấy giờ đều được đưa sang đánh Đại Việt. Trong đó có thể kể đến hỏa tiễn, máy bắn đá, nỏ lớn, pháo thăng thiên…
Công cuộc chuẩn bị và hành quân được tiến hành song song một cách khẩn trương. Khi quân đi xa kinh thành rồi, vua Tống vẫn dùng thư từ theo dịch trạm để theo dõi và chỉ đạo từ xa. Quách Quỳ dẫn quân gần đến biên giới còn nhận được chiếu của vua Tống như sau: “Nghe nói vùng khê động có nhiều của quý. Sau khi Giao Chỉ thua, hãy đặt thành quận, huyện mà cai trị và hãy sung công của cải”. Lời đó lộ rõ mục đích cốt lõi của cuộc chiến không phải là báo thù rửa hận mà chính là để cướp bóc, bành trướng lãnh thổ. Khoảng tháng 8/1076, đạo quân 10 vạn lính với trang bị mạnh, cùng 20 vạn phu dưới trướng của tướng Quách Quỳ đã tiến tới gần biên giới nước ta, quân tiên phong do tướng Nhâm Khởi chỉ huy đã bắt đầu tiến sát các tiền đồn Đại Việt. Đồng thời cánh thủy quân của Dương Tùng Tiên cũng được lệnh tập trung ở cảng Khâm Châu sẵn sàng xuất phát, chính thức mở màn cuộc chiến tranh xâm lược

Lý Thường Kiệt dùng lính thủy đánh bộ chống quân Tống

   Khi bố trí một thế trận chống ngoại xâm, Lý Thường Kiệt phải chọn địa bàn châu thổ sông Hồng gần kinh thành Thăng Long làm trọng tâm với lực lượng đóng vai trò then chốt là các đội quân chính quy người Kinh

Sau khi hoàn thành cuộc bắc phạt đánh phủ đầu nước Tống và rút quân an toàn về nước, Lý Thường Kiệt – vị chỉ huy tối cao của quân đội Đại Việt đã biết chắc thế nào quân Tống cũng sẽ tiến sang báo thù. Ông đã cùng với triều đình và quân dân cả nước tích cực chuẩn bị để quyết chiến với quân xâm lược. Trai tráng cả nước được tuyển mộ vào đội ngũ, ngày đêm tập luyện chiến đấu.
Ở biên giới, thế phòng thủ của Đại Việt chủ yếu dựa vào các lực lượng thổ binh của các tù trưởng. Tù trưởng Lưu Kỷ giữ châu Quảng Nguyên. Phò mã Thân Cảnh Phúc ở châu Quang Lang đóng quân tại động Giáp giữ ải Giáp Khẩu và ải Quyết Lý. Châu Môn có quân của các tù trưởng Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh án ngữ tuyến đường bộ từ Bình Gia đến Thái Nguyên. Vi Thủ An giữ đường từ Tư Lăng đến Lạng Châu. Trong các đội quân này mạnh nhất là quân của Lưu Kỷ và Thân Cảnh Phúc.
Quân của các tù trưởng châu động trên là những lực lượng người dân tộc thiểu số Tày, Nùng. Họ là những chiến binh can đảm và võ nghệ cao cường, lại thông thuộc địa thế, thạo chiến đấu trên những vùng núi non. Đó là những lực lượng đáng gờm đối với bất kỳ đội quân nào. Tuy nhiên có một yếu điểm là những sắc dân biên cương này không hoàn toàn trung thành với Đại Việt. Họ là những xứ tự trị, đối với vương triều Lý về căn bản vẫn chỉ là một liên minh lợi ích. Các đời vua triều Lý thường cố gắng chiêu dụ các tù trưởng bằng tước vị, tiền bạc và hôn nhân để mong có được sự quy phục và đã mang lại nhiều hiệu quả.
 Sự đoàn kết như những người đồng chủng đồng văn giữa người miền đồng bằng trung tâm và người miền thượng du về căn bản vẫn khá lỏng lẻo. Chính vì vậy, khi bố trí một thế trận chống ngoại xâm, Lý Thường Kiệt phải chọn địa bàn châu thổ sông Hồng gần kinh thành Thăng Long làm trọng tâm với lực lượng đóng vai trò then chốt là các đội quân chính quy người Kinh sống ở đồng bằng trung châu nước Đại Việt. Đó là những đạo quân đặc biệt trung thành, có thể chiến đấu tới cùng trong mọi hoàn cảnh để bảo vệ đất nước.
Đặc biệt, vai trò của thủy quân là tối quan trọng trong thế trận chống ngoại xâm. Có thể nói đa phần quân chính quy Đại Việt là lính thủy đánh bộ hoặc thủy quân. Tướng Lý Kế Nguyên nắm giữ một đạo thủy quân tinh nhuệ đóng tại biên thùy châu Vĩnh An để đề phòng quân Tống dùng thuyền chở quân vượt biển hoặc phối hợp với bộ binh của tướng Quách Quỳ. Lý Kế Nguyên phụ trách che chắn cho cả một vùng bờ biển phía đông bắc Đại Việt, với những tuyến đường thủy yếu huyệt là vịnh Đông Kênh, cửa biển Bạch Đằng. Quân số đạo thủy quân mà Lý Kế Nguyên chỉ huy ước chừng dưới 2 vạn quân.
Hai hoàng thân Hoằng Chân, Chiêu Văn nắm giữ 2 vạn thủy quân với 400 chiến thuyền đóng tại Vạn Xuân. Từ vị trí này, chiến thuyền Đại Việt có thể kiểm soát cả một hệ thống sông ngòi che chắn cho thành Thăng Long từ phía bắc, bao gồm các con sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương, sông Đuống, sông Thái Bình, sông Bạch Đằng … đặc biệt là sông Cầu. Con sông Cầu thời bấy giờ là một con sông lớn, là nơi mà các tuyến đường quan trọng từ bắc xuống nam đều phải đi qua, với bến đò Như Nguyệt gần như là đường độc đạo để cho một đội quân lớn có thể vượt sông. Vào thời kỳ này, bến đò này là một chốt giao thông huyết mạch, cùng với vùng lân cận là điểm khả thi nhất, thậm chí gần như là sự lựa chọn duy nhất cho quân Tống nếu muốn vượt sông Cầu đánh chiếm Thăng Long.
Chính vì đây là yếu địa, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng ở đây một chiến tuyến quy mô dài gần 30 km, cùng các điểm phụ trợ nằm ở bờ nam. Chiến tuyến Như Nguyệt là một chuỗi những cụm chiến lũy được làm bằng gỗ, tre, nứa được liên kết bằng vữa đất. Chiến lũy được đắp theo những nơi được đánh giá là có thể vượt sông. Bên ngoài các đoạn chiến lũy, lớp lớp những chông tre được cắm kín bờ sông chĩa mũi nhọn về phía bắc. Ngoài ra còn có những hầm chông ngầm được chôn tạo thành những cái bẫy. Những nơi bụi rậm hay bờ dốc cao thì không có chiến lũy, chỉ có quân mai phục đề phòng.
Quân Đại Việt đóng thành cụm quân lớn ngay tại bến đò. Cùng với đó là một chuỗi liên hoàn các cụm quân dọc theo chiến tuyến để canh chừng và liên lạc, hỗ trợ cho nhau. Có bốn cụm quân lớn dọc sông Cầu là Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động, Vạn Xuân được gấp rút chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Quân phòng thủ trên bờ và thủy quân dưới sông từ căn cứ Vạn Xuân phối hợp với nhau tạo thành chiến tuyến mang tính chất sống còn đối với Đại Việt. Tống quân số cho chiến tuyến này chừng 6 vạn.
Trong đó, có 2 vạn thủy quân cùng 400 chiến thuyền ở căn cứ Vạn Xuân, 4 vạn quân còn lại đóng thành nhiều cụm liên hoàn dọc theo chiến tuyến . Các cỗ máy bắn đá cũng được bố trí ở những trọng điểm dọc bờ sông. Ngay tại bờ nam bến Như Nguyệt còn có 300 chiến thuyền bày trận. Cấm quân tinh nhuệ nhất dùng để bảo vệ kinh thành cũng được điều lên tham chiến. Ngay sau lưng chiến tuyến chính là con đường tiến thẳng vào kinh thành Thăng Long.
Ở vùng lãnh thổ phía nam, Đại Việt còn chịu sự đe dọa của Chiêm Thành và Chân Lạp. Hiện tại, sử liệu về việc chuẩn bị cho mặt trận phía nam này hầu như không có gì. Chúng ta thấy rằng quân Đại Việt với những đơn vị đông đảo nhất đã tập trung cho mặt trận phía bắc chống quân Tống. Nhưng hẳn là vùng phía nam cũng phải có số quân phòng thủ nhất định để đề phòng liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp. Ngoài số lộ quân (quân địa phương thời Lý) phòng giữ các châu, trấn phía nam, Đại Việt còn sử dụng tù binh Tống để sung làm lính phòng thủ quân Chiêm. Số tù binh sung quân này có đến hàng ngàn, thậm chí gần vạn người. Đây là quân số quan trọng bổ sung cho chiến trường phía nam, đóng giữ tại trấn Nghệ An, Thanh Hóa. Tuy đội quân tù binh này ô hợp, nhưng Đại Việt hầu như không có nhiều sự lựa chọn.
Về sau, diễn biến cuộc chiến sẽ cho chúng ta thấy mặt trận phía nam chịu ảnh hưởng từ kết quả của mặt trận phía bắc. Xét cho cùng hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp tấn công Đại Việt cũng chỉ mang tính chất theo đóm ăn tàn. Họ chờ đợi một thắng lợi của nước Tống để xâu xé Đại Việt chứ chẳng dại gì dành phần khó nhọc về mình. Nhất là nước Chiêm Thành đã nhiều lần nếm mùi thất bại trước Đại Việt nên càng thêm phần thận trọng. Có thể nói rằng, nếu Đại Việt đánh bại được Tống thì hai nước này không đánh cũng tự rút. Bởi nếu quân Đại Việt được rảnh tay chiến đấu trên lãnh thổ của mình thì cho dù hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp liên minh cũng không phải đối thủ.
Cuối năm 1076, khi quân Tống tiến đến biên giới và bắt đầu những hoạt động quân sự đầu tiên, một thế trận liên hoàn trên toàn lãnh thổ nước Đại Việt đã sẵn sàng chờ đón chúng

Lý Thường Kiệt dùng gián điệp, vua Tống hoang mang

Triều đình nhà Tống
   Do thám Đại Việt cải trang thành nhà sư, nạn dân đi khắp nơi do la tin tức. Điều này khiến vua Tống lo ngại

Nước Tống muốn thôn tính Đại Việt ta, cái họ thiếu nhất chính là thông tin. Ở chiều ngược lại, Đại Việt ở thế bị uy hiếp cũng rất cần nắm rõ tin tức của quân Tống. Từ cách bố trí lực lượng, thành phần tham chiến, vũ khí, thời gian … Tất cả những thứ đó đều rất quan trọng cho việc lập kế hoạch đánh giặc cụ thể, hiệu quả. Chính vì vậy, mặt trận nội gián, phản gián được cả hai bên rất chú trọng và diễn ra khá quyết liệt ngay từ trước khi hai bên khai chiến đến xuyên suốt cuộc chiến.
Muốn hiểu thấu đáo về vấn đề sử dụng nội gián của cả hai phía, trước hết phải nắm rõ về đặc điểm dân cư thời bấy giờ. Đương thời, lãnh thổ và dân tộc không hề được phân định rạch ròi như thời hiện đại. Nước Tống ban đầu lập quốc thì lấy vùng châu thổ sông Hoàng Hà làm trung tâm, dân cư nơi đó được coi là những dân thân thuộc, là người “Hán” chính hiệu. Còn các dân phía nam sông Trường Giang vẫn chỉ là những dân “hạng hai”. Trong đó có những sắc dân Mân, Điền, Ngô … vẫn mang những hồi ức về những nhà nước độc lập xa xưa của họ, phần nào có xu hướng thoát khỏi sự cai trị của đế chế Tống để xây dựng lại nền độc lập. Đó là những cư dân vẫn đang trong quá trình đồng hóa với những người phương Bắc để tạo thành người “Hán”. Những dân này ở vùng ven biển phía đông nam nước Tống rất nhiều.
Thêm vào một điều nữa là dân vùng Lưỡng Quảng có ngoài hình khá giống với dân Việt, sinh ra khó phân biệt, dễ dàng cho nội gián người Việt trà trộn. Dân chài lưới, người đi biển buôn bán cũng được Đại Việt thu nạp để do thám trong lãnh thổ nước Tống, được dân chúng che chở tạo thành cả một mạng lưới gián điệp lợi hại. Từ đây mà những động thái mộ binh phu, chuyển lương, đóng chiến thuyền được phía Đại Việt nắm rõ. Tống Thần Tông cũng biết dân chúng các vùng này không trung thành, mối nguy hiểm từ trinh thám Đại Việt khá cao nên thường xuyên gởi các chiếu chỉ dặn dò các lộ Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến phải cẩn thận đề phòng nội gián. Những người Quảng Nam, Phúc Kiến nước Tống sang buôn bán bên Đại Việt thường được trọng dụng, ban cho quan chức nên nhiều người ở hẳn Đại Việt không về nữa.
Đến mức ở nước Tống thời bấy giờ có tin đồn vua Lý vốn là người Mân sang làm vua nên người Lưỡng Quảng, Phúc Kiến mới được ưu ái như thế. Vua Tống sai người nhà của những người ở lại Đại Việt phải khai báo và chiêu dụ trở về nhằm khai thác tin tức. Tống còn phải đối phó với những quân do thám mà ta để lại dọc đường sau khi đánh Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu. Do thám Đại Việt cải trang thành nhà sư, nạn dân đi khắp nơi do la tin tức. Điều này khiến vua Tống lo ngại, hạ lệnh cho lộ Quảng Tây thôi cấp các bằng sắc cho các nhà sư (bằng sắc là một kiểu chứng nhận đối với các nhà sư đương thời).
Xa hơn một chút về phương nam, lộ Quảng Tây nơi biên thùy Tống – Việt và vùng rừng núi phía bắc Đại Việt là vùng của những sắc dân thiểu số, phần lớn là những mảng vỡ của tộc Tây Âu xa xưa. Nước Tống gọi họ là man di, nước Việt cũng bắt chước gọi chung là man. Vùng này gọi chung là vùng khê động, chịu sự cai trị trực tiếp của hàng loạt các dòng tù trưởng. Trên danh nghĩa, những sắc dân khê động này hoặc thuộc về Tống, hoặc thuộc lãnh thổ Đại Việt nhưng thực tế họ rất dễ đổi phe, bởi vì cả Tống và Việt đều không hoàn toàn đồng chủng đồng văn. Ở những trường hợp này, bên nào khéo ứng xử, chiêu dụ hơn sẽ có được sự phục vụ của họ. Chính những sắc dân này là đối tượng mà nước Tống rất tích cực tranh thủ bằng của cải, chức tước trước và trong cuộc chiến. Chỉ cần một vài người thông thuộc địa bàn dẫn đường, Tống có thể dễ dàng công phá những cửa ải hiểm trở nhất.
Tống sai những thám tử lẫn vào trong dân chúng vùng biên giới để kêu gọi dân chúng làm nội ứng cho quân Tống khi giao tranh nổ ra. Những thám tử này cũng là dân khê động vùng biên giới nhưng nằm bên lãnh thổ nước Tống. Vua Tống còn có chính sách chiêu dụ đối với những tù binh, hàng binh Đại Việt, ý đồ dùng những người này làm chỉ điểm, dẫn đường. Mạng lưới gián điệp của quân Tống chỉ phát huy một ít tác dụng ở vùng biên giới và vùng rừng núi phía bắc nước Đại Việt mà về sau trong cuộc chiến chúng ta sẽ thấy rõ. Tuy nhiên thành quả từ việc này không đáng kể so với thành tích dùng nội gián của phía Đại Việt. Nhất là, quân Tống vẫn không thể tiếp cận những tin tức về nội tình triều đình Đại Việt cùng các chính sách, dẫn đến những đoán định sai lầm như là đánh giá thấp sự đoàn kết của nội bộ triều đình Đại Việt.
Về phía quân Đại Việt, những hoạt động do thám đã đem lại những thông tin rất quan trọng để lập ra kế hoạch ứng chiến. Về việc chọn địa bàn quyết chiến, Lý Thường Kiệt đã không sử dụng lợi thế hiểm trở ở các cửa ải phía bắc để lập tuyến phòng thủ ngay tại biên giới mà chọn cách sử dụng các tuyến sông lớn ở vùng đồng bằng làm nơi ngăn cản quân thù. Đó là quyết định không đơn giản. Địa thế vùng biên ải phía bắc là vùng đất thiện hiểm, dễ thủ mà khó công, thuận lợi cho lấy ít địch nhiều. Nhất là, Đại Việt có tượng binh mạnh có thể trấn giữ cửa ải rất tốt. Nếu so về địa thế, vùng đồng bằng trung tâm không thể sánh được với vùng biên giới về thuận lợi cho phòng thủ, lại có phần thuận lợi cho kỵ binh địch.
Tuy nhiên qua phân tích kỹ càng, Lý Thường Kiệt đã chọn vùng đồng bằng làm nơi quyết chiến. Một phần của quyết định này đến từ lý lẽ tự nhiên là vùng đồng bằng gần với hậu cần của quân ta hơn, thuận lợi cho đánh lâu dài và cũng thuận lợi cho dùng thủy quân. Một phần là do Lý Thường Kiệt hiểu hiểm họa bị nội ứng chỉ điểm sẽ luôn chực chờ nếu đặt giao chiến lớn tại vùng biên giới phía bắc. Đối với việc phân chia lực lượng, nắm được rằng thủy binh Tống được thành lập vội vàng, lực lượng ô hợp nên Lý Thường Kiệt đã không giao nhiều quân cho Lý Kế Nguyên đóng giữ châu Vĩnh An. Quân số đạo thủy quân của Lý Kế Nguyên tầm khoảng dưới 2 vạn quân, nhưng đều là tinh binh được trang bị những chiến thuyền tối tân đủ sức chiến đấu ở cả vùng sông ngòi và những vùng biển khơi, có nhiệm vụ là ngăn chặn thủy quân Tống phối hợp với đạo quân chủ lực của Quách Quỳ.
Qua phân tích thông tin, Đại Việt đã đoán trước được đường tiến của thủy quân Tống. Điều này rất quan trọng, giúp thủy quân Lý Kế Nguyên bố trí lực lượng hiệu quả. Một đội thủy quân khác của Đại Việt khoảng 2 vạn quân, do chính hai hoàng thân Hoằng Chân, Chiêu Văn thống lĩnh đã được bố trí chốt giữ tại căn cứ Vạn Xuân nhằm kiểm soát sông Cầu, bên cạnh chiến tuyến Như Nguyệt, nơi mà Lý Thường Kiệt dự liệu sẽ diễn ra cuộc quyết chiến với đạo quân chủ chốt của nước Tống – đạo bộ binh 10 vạn lính và 20 vạn dân phu. Cũng dựa vào những tin tức tình báo có được, Lý Thường Kiệt hiểu rằng cuộc chiến quyết định sẽ là cuộc đối đầu giữa Tống và Việt. Hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp tuy cam kết tham chiến nhưng chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Nhờ những bố trí chính xác dựa trên các phân tích thông tin, thế trận chống ngoại xâm của Đại Việt trở nên vô cùng vững chắc, đủ sức đương đầu với những đạo quân hùng hậu muốn xâu xé đất nước.

Tượng binh Đại Việt đối đầu với chiến thuật 'biển người' của nhà Tống

   Quân Đại Việt có tượng binh giúp sức đã chặn được quân Tống trong thời gian ngắn và gây nhiều thiệt hại, nhưng quân Tống dùng mưa tên bắn vào voi.

Mở màn chiến tranh, quân Tống đánh chiếm trại Ngọc Sơn thuộc châu Vĩnh An (Móng Cái ngày nay) để làm hậu thuẫn cho thủy quân Tống ở Khâm Châu. Ngay khi đại quân của Quách Quỳ còn ở Đàm Châu, tướng Nhâm Khởi đã dẫn quân tiên phong Tống đánh trại Ngọc Sơn từ cuối tháng 7.1076 và chiếm được trại này vào giữa tháng 8.1076. Với một tiền trạm biên thùy như trại Ngọc Sơn mà cầm cự được chừng nửa tháng đã chứng tỏ sức phản kháng của binh lính Đại Việt tại nơi này không hề nhỏ.
Vì vậy mà khi xuống chiếu thưởng công đầu cho Nhâm Khởi để khích lệ tinh thần quân sĩ, vua Tống phải phê vào “Công tuy không to, nhưng cũng đã lần đầu làm phấn khích sĩ tốt”.Sau trận này quân Tống dùng địa bàn trại Ngọc Sơn để kiểm soát châu Vĩnh An, làm bàn đạp chuẩn bị cho cánh thủy quân. Mặt trận chính yếu trên bộ nằm ở những hướng khác. Tháng 10.1076 đại quân của Quách Quỳ tiến đóng ở Tư Minh, Bằng Tường giáp địa giới nước ta, chia quân tấn công các cửa ải để thông đường tiến sâu vào nội địa Đại Việt.
Nước Tống muốn chiếm Đại Việt, đầu tiên họ phải đương đầu với hệ thống tiền đồn biên giới và các thế lực dân tộc thiểu số ở vùng giáp biên hai nước. Trước đây, khi quân Đại Việt đánh phủ đầu nước Tống đã tập họp được một liên quân lớn, với hầu hết các tù trưởng phía Đại Việt tham chiến. Sau khi hạ được Ung Châu, còn có những tù trưởng thuộc lãnh thổ Tống theo về với Đại Việt. Nay Tống mang đại quân xuống, dùng nhiều của cải chiêu dụ, các tù trưởng phía Tống lần lượt nhanh chóng trở về phe Tống triều. Tống cũng cho các thuyết khách tới tiếp xúc với các tù trưởng phía lãnh thổ Đại Việt, dùng nhiều lời lẽ vừa dụ dỗ vừa hăm dọa để lung lạc tinh thần các thủ lĩnh người dân tộc thiểu số. Ở phía bên lãnh thổ Đại Việt, phản ứng của các tù trưởng có khác biệt lớn. Có những trường hợp đã chiến đấu rất hăng hái chống quân xâm lược, chỉ đầu hàng khi bị bức bí không thể làm khác. Có trường hợp sắt son một lòng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng vì Đại Việt. Nhưng cũng có vài tù trưởng nhanh chóng đầu hàng, thậm chí làm phản bội chỉ điểm cho quân Tống.
Trong số các tù trưởng, trước tiên phải kể đến là tù trưởng Lưu Kỷ ở châu Quảng Nguyên (Cao Bằng). Triệu Tiết từng nói với Quách Quỳ: “Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc giữ động Giáp, đều cầm cường binh”. Địa bàn Quảng Nguyên là một trong những cửa ngõ đầu tiên để quân Tống tiến vào nước ta theo đường bộ. Chính vì vậy, Lưu Kỷ cùng đội quân của mình là những người sớm phải đối đầu với đạo bộ binh đông đảo quân Tống. Ban đầu, vua Tống còn nhận định rằng có thể dễ dàng chiêu hàng Lưu Kỷ. Bởi vì trước kia vào năm 1073, Lưu Kỷ từng nghe lời xúi dục của quan Kinh lược sứ Quảng Tây là Thẩm Khởi mà xin nội thuộc Tống nhưng bấy giờ Tống không dám nhận vì sợ sớm lộ mưu thôn tính Đại Việt. Nhưng thực tế thì trải qua một thời gian gắn bó với quân dân Đại Việt, cùng chiến đấu chung chiến tuyến Lưu Kỷ đã thay đổi hoàn toàn lập trường, trở thành một thủ lĩnh trung thành với Đại Việt.
Tháng 12.1076, đại quân Tống từ châu Tư Minh phía biên giới Tống tấn công châu Quảng Nguyên. Tướng Yên Đạt, Tu Kỷ dẫn quân nối nhau mà tiến vào địa bàn Quảng Nguyên. Lưu Kỷ cùng 5.000 quân của mình dựa vào địa thế chiến đấu ngoan cường, bao vây tiền quân của Tống, giết và bắt sống giặc tới hàng ngàn tên. Nhưng Yên Đạt dựa vào số đông, thúc trung quân liều chết tới cứu viện, Lưu Kỷ ít quân phải thả lỏng vòng vây và rút lui về căn cứ. Quân Tống tấn công không thủng nổi căn cứ Lưu Kỷ. Yên Đạt bày kế ly gián, sai bọn gián điệp trà trộn trong dân chúng phao tin rằng Lưu Kỷ đã ước hẹn sắp ra hàng quân Tống. Các thủ lĩnh nhỏ ở các động trúng kế, kéo nhau đem quân hàng Tống trước để yên thân. Lưu Kỷ bị bao vây, bất đắc dĩ cũng phải ra đầu hàng ngày 1.1.1077. Quân Tống bắt tù trưởng Lưu Kỷ cùng gia đình và các hàng tướng khác đem về Tống, 5000 quân Quảng Nguyên cũng bị bắt làm tù binh. Quân Tống vào căn cứ Quảng Nguyên cứu lại được 3000 tên bị bắt trước đó. Các động thuộc châu Quảng Nguyên và lân cận bị mất về tay quân Tống, bị ép cung ứng lương thực.
Quân Tống từ châu Quảng Nguyên tiến đánh Môn Châu, tù trưởng Hoàng Kim Mãn, Sầm Khánh Tân ở vùng này đã thông đồng với Tống từ trước, nhanh chóng quy hàng và làm hướng đạo cho Tống. Quân Tống từ châu Tư Lăng tiến đánh Tô Mậu, tù trưởng Vi Thủ An cũng nghe lời dụ hàng của Tống mà hạ khí giới.
Ngày 8.1.1077 cánh quân chính của Quách Quỳ vượt ải Nam Quan tiến đánh huyện Quang Lang. Quân Tống gặp phải quân của phò mã Thân Cảnh Phúc và quân triều đình chặn đánh ở ải Quyết Lý. Tại đây, một trận ác chiến đã diễn ra. Quân Đại Việt có tượng binh giúp sức đã chặn được quân Tống trong thời gian ngắn và gây nhiều thiệt hại, nhưng quân Tống dùng mưa tên bắn vào voi và cho số đông quân cầm mã tấu chém vòi voi nên tượng binh quay đầu chạy, quân Đại Việt do phò mã Thân Cảnh Phúc chỉ huy phải rút lui về ải Giáp Khẩu (tức ải Chi Lăng) đặt sẵn mai phục chờ giặc. Ải này đặc biệt hiểm trở, trước đây các tướng phương Bắc đều phải chịu thương vong lớn tại đây.
Quách Quỳ là một tướng lão luyện, dò biết được có quân mai phục nên không dám tiến vào ải mà chấp nhận đi đường vòng khó nhọc, dựa theo sự dẫn đường của các phần tử phía Đại Việt đầu hàng. Quân Tống vượt dãy núi Bắc Sơn đến Yên Thế, là một con đường tắt lợi hại đánh vào phía sau phòng tuyến của quân Đại Việt. Tại làng Vạn Linh, kỵ binh địch đụng độ đội quân dự bị của triều đình dùng để chi viện cho ải Giáp Khẩu. Sự xuất hiện của quân Tống là một sự bất ngờ lớn với quân Đại Việt tại đây bởi đường đi mà quân Tống chọn rất hẹp và hiểm trở, phải là người thông thuộc mới có thể đi đúng được. Nhưng dù thế nào đi nữa, quân Đại Việt cũng quyết tử chiến, dựa vào thế núi cao bắn nỏ và ném đá về phía quân Tống gây thương vong lớn, lại lùa voi ra đánh giết quân Tống rất nhiều.
Tướng tiên phong Tống là Tu Kỷ phải rất khó nhọc mới qua được nhờ ưu tiên quân số, hết lớp này đến lớp khác tràn lên khiến quân Đại Việt thất thủ. Quách Quỳ theo đường vòng là nằm ngoài kế hoạch tác chiến của quân Đại Việt, toàn bộ đội quân mai phục ở ải Giáp Khẩu đứng trước nguy cơ bị đánh tập hậu và bị tiêu diệt. Lo ngại điều đó, Thân Cảnh Phúc nhân đêm tối lui quân lẫn về giữ rừng núi Động Giáp, chờ cơ hội đánh phục kích sau lưng giặc. Trong khi cánh trung quân của Quách Quỳ phải đụng trận với Thân Cảnh Phúc và một số đạo quân nhỏ thì cánh quân của Triệu Tiết theo hướng Bằng Tường (thuộc Tống) tiến vào Đại Việt, men theo Bình Giã, Vạn Nhai, Nhã Nam mà tiến và hầu như chẳng gặp phải cản trở gì. Các cánh quân Tống men theo ba ngã dọc sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam mà tiến như vũ bão, không còn đội quân nào trong vùng cản nổi bước tiến của giặc nữa.
Chỉ trong vòng chưa đầy 10 ngày, các cánh quân Tống đã đến sông Phú Lương hội quân, tức là gần sát Thăng Long – trái tim của Đại Việt. Để đến được nơi này, đạo quân Tống đã bỏ xác tổng cộng gần 1 vạn quân trên các tuyến biên giới. Quách Quỳ còn trong hơn 9 vạn quân kỵ bộ. Bên kia bờ sông chính là con đường rộng mở tiến vào kinh thành Đại Việt, tiến vào vùng đồng bằng trung châu màu mỡ. Từ bến Như Nguyệt đến Thăng Long chỉ cách chừng 20km. Nếu quân Tống vượt qua được sông, hầu như chắc chắn Đại Việt sẽ vong quốc.
Nhưng tại đây, quân Tống gặp phải một phòng tuyến quy mô chưa từng thấy mà Lý Thường Kiệt cùng quân dân Đại Việt đã cất công dựng lên từ nhiều tháng trước. Đó là phòng tuyến Như Nguyệt chắn ngang đường thiên lý (con đường lớn xuyên bắc nam). Trên bờ, lớp lớp chông tre và chiến lũy với hàng vạn bộ binh dàn sẵn. Dưới sông, hàng lớp chiến thuyền Đại Việt tuần tra. Lúc này thì quân Tống không còn đường nào để đi vòng né tránh nữa bởi thời bấy giờ đây là nút giao thông gần như duy nhất mà một đội quân có thể đi qua.
Quân Tống đóng trại ở bờ bắc sông Phú Lương, ngay ở đoạn bờ bắc bến Như Nguyệt. Quách Quỳ cho lập một hệ thống trạm chuyển lương dài từ biên giới Tống – Việt đến tận nơi đóng quân. Kế hoạch ban đầu của Quách Quỳ là đóng quân chờ phối hợp với cánh thủy binh Tống. Tuy nhiên chúng ta sẽ thấy rằng, thủy chiến chưa bao giờ là điều mà người Việt tỏ ra kém cỏi. Cánh quân thủy Đại Việt do tướng Lý Kế Nguyên ở mạn đông bắc lúc bấy giờ cũng đang chiến đấu chặn đường tiến của thủy quân địch. Vận mệnh Đại Việt không chỉ phụ thuộc vào cuộc chiến đấu trong nội địa, mà còn phụ thuộc vào kết quả của cuộc chiến giữ các chiến thuyền mạn biển đông bắc.

Lý Thường Kiệt và cuộc đại khai sát giới quân Tống trước cửa Bạch Đằng

   Thuyền Tống to lớn cơ động chậm, bị các chiến thuyền thực thụ của Đại Việt nhanh nhẹn bao vây tiêu diệt từng chiếc. Quân lính Tống ô hợp không biết xoay sở thế nào, bị quân Đại Việt tắm máu. Binh thế Tống đứt đoạn không sao cứu vãn nổi, nhưng vì thủy quân Tống rất đông nên thủy quân Đại Việt giết không xuể.

Thủy quân là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ kế hoạch xâm lược của nước Tống. Như các kỳ trước đã nói, thủy quân Tống thời kỳ này là một đội quân “thời vụ”, được gây dựng vội vàng chỉ nhằm phục vụ cho cuộc thôn tính Đại Việt. Lính tráng của thủy quân Tống đa phần là dân ven biển được tuyển mộ và huấn luyện trong thời gian ngắn, còn chiến thuyền là những thuyền buôn hoán cải. Xét về chất, thủy quân Tống kém Đại Việt xa cả về lính lẫn thuyền. Bởi Đại Việt là một nước có cơ sở văn hóa sông biển mạnh, lãnh thổ nhiều sông ngòi và giáp biển, thường xuyên phải dùng đến thủy quân cho các cuộc xung đột với Chiêm Thành và đánh dẹp trong nước.
Tuy nhiên, sự kỳ vọng của triều đình Tống cùng tướng Quách Quỳ vào thủy quân Tống không phải là viển vông hay thiếu cơ sở. Với tiềm lực của một đế chế rộng lớn và đông dân hơn Đại Việt gấp nhiều lần, nước Tống toan dùng ưu thế số lượng để bù lại sự yếu kém về chất lượng.  Các thuyền buôn mà Tống chọn sung công để dùng cho thủy quân là các thuyền đi biển cỡ lớn, vừa chở được nhiều quân lính vừa giảm chao đảo khi di chuyển. Thủy quân Tống có đến hàng trăm thuyền lớn. Mỗi chiếc chở được hơn trăm lính đến hàng trăm lính.
Quân số đạo thủy quân Tống, theo sách Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam thì có đến hơn 5 vạn quân, do tướng Dương Tùng Tiên chỉ huy. Dương Tùng Tiên được vua Tống phong làm An Nam đạo hành doanh Chiến trạo đô giám, phối hợp với một số quan chức khác phụ trách từ tuyển mộ quân, trưng thu thuyền đến vạch kế hoạch tác chiến. Thủy quân Tống áp đảo hoàn toàn về số lượng so với thủy quân Đại Việt phía mạn đông bắc do Lý Kế Nguyên chỉ huy. Thủy quân của Lý Kế Nguyên chỉ có dưới 2 vạn quân theo như sách Danh tướng Việt Nam ước đoán Thậm chí toàn bộ binh chủng thủy quân Đại Việt cũng ít hơn quân số đạo thủy quân Tống.
Theo kế hoạch ban đầu mà tổng chỉ huy thủy quân Tống – tướng Dương Tùng Tiên vạch ra là dùng thủy quân đi vòng đường biển để tiến thẳng vào lãnh thổ Chiêm Thành, phối hợp với quân Chiêm đánh ngược lên từ phía nam Đại Việt, tạo thành thế gọng kìm. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, kế hoạch này đã tỏ ra quá sức đối với Tống. Bởi việc cho hàng vạn thủy quân đi đường biển xa xôi như thế đòi hỏi sự chuẩn bị về hậu cần quá lớn, trong khi thời gian chuẩn bị thì có hạn. Việc chuẩn bị hậu cần như thế vượt ngoài tiềm lực của bất kỳ đất nước nào thời bấy giờ, kể cả Tống. Do sự phá sản của kế hoạch vượt biển vào Chiêm, thủy quân Tống phải chuyển sang kế hoạch mới. Đó là men theo ven biển đông bắc Đại Việt để xâm nhập vào nội địa theo ngã sông Bạch Đằng, phối hợp với đạo bộ binh của Quách Quỳ, chở quân sang sông lớn để chiếm kinh thành Thăng Long.
Thủy quân Tống tập kết ở Khâm Châu, vào cuối thu 1076 đã vượt biển tiến vào địa giới châu Vĩnh An mà đạo quân của tướng Nhâm Khởi đã chiếm đóng từ trước đó. Tại Vĩnh An, quân Đại Việt rút lui tạm nhường trận địa cho giặc. Lý Kế Nguyên âm thầm cho lực lượng thủy quân của mình đặt mai phục ở sông Đông Kênh, tuyến đường huyết mạch mà ông dự liệu chắc rằng thủy quân Tống phải đi qua. Vì rằng, đó là cách giải thích hợp lý nhất cho việc quân Tống ra quân chiếm Vĩnh An từ rất sớm. Đông Kênh vốn là một dải nước ven biển giữa đất liền và các hải cảng từ Vĩnh An đến Bạch Đằng.
Đúng như dự đoán, tướng Dương Tùng Tiên cùng thủy quân Tống tiến quân vào Vĩnh An mà không hề thấy sự chống cự nào của thủy quân Đại Việt, bèn lệnh cho toàn quân xếp hàng dọc theo dòng Đông Kênh tiến gấp về hướng cửa sông Bạch Đằng, lọt ngay vào trận địa mai phục của quân Đại Việt chờ sẵn. Lý Kế Nguyên phát lệnh tấn công, thủy quân Đại Việt dốc toàn lực đánh dữ dội vào đội hình thuyền địch. Lúc này thì toàn bộ những nhược điểm của thủy quân Tống bộc lộ. Thuyền Tống to lớn cơ động chậm, bị các chiến thuyền thực thụ của Đại Việt nhanh nhẹn bao vây tiêu diệt từng chiếc. Quân lính Tống ô hợp không biết xoay sở thế nào, bị quân Đại Việt tắm máu. Binh thế Tống đứt đoạn không sao cứu vãn nổi, nhưng vì thủy quân Tống rất đông nên thủy quân Đại Việt giết không xuể.
Dương Tùng Tiên lui thuyền về cửa sông Đông Kênh phía bắc để chỉnh đốn lực lượng cố thủ. Quân Đại Việt truy kích, giao chiến hơn 10 trận lớn nhỏ với quân Tống và luôn dành thế thắng, hàng vạn thủy quân Tống bỏ xác nơi đáy nước. Dương Tùng Tiên thế cùng phải lệnh cho thủy quân tháo chạy ra biển, lui về tận vùng biển Khâm Châu, Liêm Châu để lập thủy trại. Giờ đây chẳng những không tiến quân được, trái lại thủy quân Tống còn lo ngại thủy quân Đại Việt sẽ tràn sang hải cảng của Tống. Dương Tùng Tiên về chẳng dám về, cho thuyền lượn lờ chiếu lệ trên biển đến hàng mấy tháng trời và gởi thư về đất liền Tống dặn dò phòng bị :“Vừa rồi, tôi gặp quân liên lạc của giặc mang lệnh của viên hành quân chiêu thảo sứ bên giặc là Lý Kế Nguyên. Sau đó nhiều lần tôi đánh chúng, nhưng chúng không có ý khuất phục. Vậy xin hãy ra lệnh phòng bị nghiêm ngặt ở biên giới để tránh sự bất ngờ”.
Hai viên hiệu dụng là Phàn Thực, Hoàng Tông Khánh cùng một tốp nhỏ thuyền được Tùng Tiên sai vượt biển xuống Chiêm Thành để thúc giục Chiêm Thành nhanh chóng tiến quân đánh Đại Việt từ phương nam. Nhưng đây cũng là một việc làm vô bổ. Bởi vì đường thẳng hầu như là không thể đi do sự phong tỏa của thủy quân Lý Kế Nguyên, mà đi vòng ra khơi thì đường biển quá xa xôi, khó mà đưa tin kịp thời cho Chiêm Thành để phối hợp với Tống. Việc này cũng thừa thải, do trước sứ Chiêm Thành sang đã đồng ý tham chiến rồi và thực tế thì Chiêm Thành cũng đã cất quân tấn công Đại Việt.
Như vậy là, thủy quân Tống chẳng giúp ích gì được cho bộ binh Tống ngoài việc phân tán một phần binh lực Đại Việt cho mặt trận ven biển đông bắc. Lý Kế Nguyên cùng đạo thủy quân dưới trướng tuần tra vững chắc ven biển đông bắc, khống chế hoàn toàn mặt trận và cắt đứt toàn bộ liên lạc giữa thủy quân với quân Tống trên bộ. Thảm bại là từ ngữ ngắn gọn để đánh giá về mặt trận đường thủy của quân Tống. Đoàn thuyền ô hợp nhếch nhác dưới trướng Dương Tùng Tiên quay trở về bờ nước Tống tận vào cuối tháng 4.1077, khi mà chiến tranh đã kết thúc rồi.

Lý Thường Kiệt bày hiểm trận, nhà Tống quyết nướng quân

   Đội hình quân Tống bị xé đứt thành từng đoạn, sang bao nhiêu bị giết bấy nhiêu nên phải rút chạy về bờ bắc. Quân tiên phong của Miêu Lý trở nên cô thế chống cự không nổi, bị vây kín bốn mặt.

Quách Quỳ không phải là nhân vật tầm thường mà là một danh tướng rất lão luyện. Chỉ với việc trong vòng 10 ngày vượt qua được các tuyến phòng thủ mạnh của Đại Việt ở biên giới, đi đường vòng vượt qua cửa ải Giáp Khẩu, khuất phục Lưu Kỷ, chiêu hàng một loạt các tù trưởng cũng chứng tỏ bản lĩnh của viên tướng này. Chẳng những thế, nhiều tướng sĩ dưới trướng trong đội quân xâm lược Đại Việt là tinh hoa của quân Tống. Bấy giờ, Quách Quỳ vượt ngàn dặm đến gần sát Thăng Long, thì gặp phải trước mặt là trùng trùng chiến lũy, sông lớn ngăn cách. Chiến tuyến Như Nguyệt như một tấm khiên vững chắc chặn ngang mũi giáo của quân địch, che chở cho trung châu Đại Việt.
Quân Tống chia quân lập trại ngay bờ bắc bến Như Nguyệt, tạo thành những cụm quân lớn liên hoàn. Có hai khối quân chính yếu là tổng trại của Quách Quỳ và trại của Triệu Tiết. Trại quân Tống bố trí theo hình tròn, rìa ngoài là quân canh giữ, bên trong là lực lượng tinh binh làm trù bị. Chính giữa đoạn đường nối hai trại của Quách Quỳ và Triệu Tiết là một cụm quân trung gian, và dọc theo đoạn đường giữa hai trại là hàng loạt các khối quân nhỏ nữa. Xung quanh mỗi trại, là các cụm quân làm vệ tinh.
Ban đầu, Quách Quỳ định chờ đợi thủy quân Tống tới để phối hợp vượt sông nhưng rất nhanh sau đó, kế hoạch đã được sắp xếp lại. Châu mục Hoàng Kim Mãn, trước là tri châu Môn phía Đại Việt, nay hàng Tống và làm hướng đạo đã chỉ điểm cho giặc một lối thuận tiện để bộ binh vượt sông. Tướng giặc Miêu Lý cùng thuộc hạ đến nơi quan sát sang bờ nam thấy vắng bóng quân Đại Việt, tâu với chủ tướng Quách Quỳ rằng : “Giặc đã trốn đi rồi. Xin cho quân qua sông”. Đầu tháng 2.1077, Quách Quỳ liền hạ lệnh cho quân lính nhân đêm tối gấp rút dùng gỗ bắc cầu phao vượt sông. Kỹ thuật bắc cầu phao gỗ là một trong những phát minh quân sự đắt giá của Tống thời bấy giờ. Đến sáng thì cầu phao bắt xong, đội tiên phong Tống do tướng Miêu Lý chỉ huy ào ào vượt sông, tiến sâu vào bờ phía nam, tướng Vương Tiến cầm quân chốt giữ ngay đầu cầu đón đại quân Tống tràn sang chi viện. Quân Tống quyết liệt đánh gấp vì ngại rằng thủy quân ta sẽ kịp kéo tới phá cầu.
Tưởng chừng như quân Tống đã xuyên thủng được phòng tuyến cuối cùng của Đại Việt, thì đến vùng Yên Phụ, tiên phong quân Tống gặp phục binh quân ta thình lình nổi lên đánh giết dữ dội. Các tốp quân Tống nối đuôi phía sau cũng bị quân Đại Việt tấn công tạt sườn. Đội hình quân Tống bị xé đứt thành từng đoạn, sang bao nhiêu bị giết bấy nhiêu nên phải rút chạy về bờ bắc. Quân tiên phong của Miêu Lý trở nên cô thế chống cự không nổi, bị vây kín bốn mặt. Miêu Lý cùng quân sĩ đạo tiên phong dưới trướng liều chết rút về hướng cầu phao thì cầu đã bị tướng Vương Tiến chặt đứt vì sợ quân Đại Việt tràn qua bờ bắc, chúng rơi vào cảnh tiến thoát lưỡng nan, bị giết đến quá nửa và bị đẩy xuống sông chết đuối. Số tàn quân còn lại một phần được bè của quân Tống bờ bắc chèo sang cứu về, số khác may mắn bơi về được bờ bắc. Tướng Miêu Lý thoát chết nhờ nhảy được lên thuyền nhỏ chèo về bờ bắc.

Đợt vượt sông đầu tiên thất bại thảm hại do mắc bẫy mai phục của Lý Thường Kiệt, Quách Quỳ lại muốn chờ đợi thủy quân tới phối hợp. Nhưng đợi mãi chẳng thấy bóng thủy quân Tống đâu, kể từ khi quân của Quách Quỳ tiến tới được bến Như Nguyệt 18.1.1077, quân Tống đã trải qua cả tháng trời dẫm chân tại chỗ. Quân Tống bấy giờ đã quá xa hậu phương, tải lương đi ngàn dặm, hậu cần dần trở nên thiếu thốn. Vì vậy, Quách Quỳ phải tính kế vượt sông lần thứ hai. Quân Tống điều động phu phen đốn gỗ kết thành những chiếc bè khổng lồ, mỗi chiếc chở được đến hơn 500 quân cùng đầy đủ vũ khí trang bị. Chuẩn bị xong, quân Tống ồ ạt vượt sông bằng bè. Các toán quân Tống đổ bộ lên bờ lập tức dùng hỏa khí đốt phá chông tre và chiến lũy phía Đại Việt, và dùng gươm đao chặt phá chiến lũy. Tuy nhiên những trò này chẳng ăn thua gì, quân Đại Việt bình tĩnh dựa vào chiến lũy mà phòng thủ vô cùng hiệu quả. Quân Tống sang bè nào thì bị giết sạch bè nấy, cứ thế lớp này đến lớp khác, thiệt hại đến gần vạn quân. Quách Quỳ đành phải ngậm ngùi hạ lệnh thu quân. Cuộc vượt sông lần thứ hai của quân Tống thất bại hoàn toàn.
Hai bên ghìm nhau ở đôi bờ sông. Đêm đêm, Lý Thường Kiệt ngầm sai người vào đền Trương Hống, Trương Hát ngâm vang bài thơ :
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan hủ bại hư

Giọng thơ đọc ngân vang rùng rợn như tiếng quỷ thần, khích lệ sĩ khí quân Đại Việt lên cao tột độ, và làm cho quân Tống nghi ngoặc hoang mang. Đó là đòn tâm lý chiến mà Lý Thường Kiệt đã dùng để vừa nâng cao tinh thần quân ta, vừa uy hiếp tinh thần quân địch.
Quách Quỳ sau hai lần vượt sông thất bại, đành thôi không tổ chức vượt sông nữa. Quân Tống sai quân đốn gỗ, làm máy bắn đá bắn phá các chiến lũy và thuyền chiến Đại Việt đậu ở bờ nam. Quân Đại Việt cũng có máy bắn đá nhưng không bắn xa được tới bờ bắc. Tuy nhiên, việc dùng máy bắn đá bắn phá của quân Tống cũng không gây thiệt hại đáng kể cho quân Đại Việt do mật độ quá thưa thớt. Quách Quỳ hạ lệnh “ai bàn đánh sẽ chém”. Lý Thường Kiệt nhiều bận khiêu chiến nhưng quân Tống cũng không sang đánh. Thủy quân Đại Việt thi thoảng xuôi dòng sông đánh phá rồi lại rút đi. Có lúc thấy thủy quân Đại Việt từ Vạn Xuân xuôi dòng tiến tới, quân Tống lại tưởng là thủy quân phe mình. Đến khi lại gần chúng mới nhận ra là quân ta đến đánh. Thủy quân Đại Việt vừa tấn công vừa ra sức quát tháo mắng chửi để chọc tức, khích quân Tống sang sông.
Quân Tống chia quân giữ kỹ bờ, đặt máy bắn đá phòng thủ, thủy quân ta không làm gì được nhiều. Chiến sự Như Nguyệt cứ thế kéo dài chậm chạp, thủy quân mà Quách Quỳ trông ngóng mãi vẫn không thấy tới. Quân Tống không biết rằng cánh thủy quân của Dương Tùng Tiên đã hoàn toàn thất thế và vô vọng trước thủy quân của Lý Kế Nguyên. Càng ở lâu, điểm yếu về hậu cần và không hợp thủy thổ của quân Tống càng hiện ra rõ nét. Vùng bắc ngạn sông Cầu thời bấy giờ là vùng thưa thớt, quân Tống không thể cướp phá được lương thực mà phải phụ thuộc hoàn toàn vào sự vận chuyển của phu dịch. Dân phu ngoài việc vận chuyển lương thực cho quân lính thì lại phải mang theo số lương thực để nuôi sống chính bản thân mình. Vì vậy mà việc vận lương trở nên vô cùng khó khăn cho quân Tống.
Theo tính toán ban đầu khi chuẩn bị xâm lược, người Tống tính ra phải có 40 vạn dân phu. Tuy nhiên cố gắng lắm Tống chỉ điều động được 20 vạn phu. Nay số phu này phải gồng mình làm việc, bị chết dần do kiệt sức. Hễ có dân phu chết, thì số sống còn lại phải làm luôn việc của người đã chết nhằm đảm bảo hậu cần cho đại quân Tống. Trong hoàn cảnh đó, các đội quân của phò mã Thân Cảnh Phúc vốn chưa bị đánh tan lại hoạt động mạnh ở vùng hậu tuyến giặc, khoét sâu vào điểm yếu của chúng. Quân Tống đóng lâu ngày ở Như Nguyệt, sức chiến đấu cứ yếu dần.

Sử Tống kể chuyện quân Tống bị làm thịt khi sang xâm phạm Đại Việt

   Sử nước Tống mô tả Thân Cảnh Phúc: "Quân Tống thừa thắng chiếm châu Quang Lang (Lạng Châu), viên Tri châu là con rể nhà vua, bèn trốn vào trong đám cỏ, thấy quân Tống thì ra giết chết hoặc bắt về xẻo thịt ăn. Người ta cho là vị Thiên thần".

Phò mã Thân Cảnh Phúc, biệt hiệu Phò mã áo chàm là tù trưởng động Giáp. Dòng dõi họ Thân nhiều đời hưởng tước lộc của triều đình nhà Lý, được phong làm tri châu Quang Lang. Ba đời dòng họ Thân đều là phò mã của triều Lý.  Tù trưởng Thân Thừa Quý lấy công chúa con vua Lý Thái Tổ. Tù trưởng Thân Thiệu Thái con của Thân Thừa Quý lấy công chúa Bình Dương của vua Lý Thái Tông năm 1029. Tù trưởng Thân Cảnh Phúc, con trai Thân Thiệu Thái lấy công chúa Thiên Thành của vua Lý Thánh Tông năm 1066. Nhờ có mối quan hệ thông gia và họ hàng khăng khít như thế, phò mã Thân Cảnh Phúc một mực trung thành với triều đình Đại Việt. Khi quân Tống tràn sang vùng biên ải, hầu hết các tù trưởng vùng khê động phía bắc Đại Việt phải đầu hàng trước sức mạnh quân sự và sự dụ dỗ của Tống.
Thân Cảnh Phúc là số ít những người còn lại vẫn kiên trì chiến đấu. Thân Cảnh Phúc có trên 5.000 quân bản bộ, các đánh giá của nước Tống đều xếp Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Tông Đản là ba nhân vật đáng gờm nhất trong số các tù trưởng khê động phía Đại Việt. Quân của Thân Cảnh Phúc đa phần là giáo binh miền sơn cước, thiện dụng cách chiến đấu nơi rừng núi, giỏi mai phục, đặt bẫy và chiến đấu ở đường hẹp. Các chiến binh này không hề thua kém quân của triều đình nhà Lý cũng như tinh tinh nước Tống về chất lượng. Họ thực sự rất thiện chiến, nhất là khi được chiến đấu trên chiến trường quen thuộc. Thân Cảnh Phúc còn được sự hỗ trợ của quân triều đình cùng đội tượng binh trong cuộc chiến giữ các cửa ải.
Đầu năm 1077, khi Thân Cảnh Phúc đặt phục binh ở ải Giáp Khẩu, bị Quách Quỳ đi đường vòng đánh bọc hậu nên buộc lòng phải lui quân. Quách Quỳ dự tính sẽ cố gắng đánh nhanh thắng nhanh, chiếm kinh đô Thăng Long và tiêu diệt quân đội triều đình sớm thì mọi đạo quân khác của Đại Việt tất sẽ phải đầu hàng hoặc là bị tiêu diệt dễ dàng. Nhưng trong thực tế, phòng tuyến Như Nguyệt quả là quá lợi hại. Quân Tống chôn chân một chỗ hàng tháng trời, hậu cần dần thiếu hụt và binh lính dần yếu sức do không hợp thủy thổ. Quân Thân Cảnh Phúc về đến động Giáp, một bộ phận quân chính quy triều đình phải rút về phía nam để hội quân cùng phòng thủ chiến tuyến Như Nguyệt. Thân Cảnh Phúc tổ chức sơ tán lực lượng vào rừng núi, chỉ còn những người già yếu ở lại thôn làng. Với quân bản bộ của mình, Thân Cảnh Phúc chia làm các toán quân nhỏ, rình rập theo dọc đường tiếp tế của quân Tống mà chờ đợi thời cơ. Khi có quân Tống hay dân phu đi riêng lẻ, lập tức bị phục binh của Thân Cảnh Phúc bắt giết.
Cách đánh này, ngày ngay chúng ta quen gọi là chiến tranh du kích, tức là loại hình chiến tranh dựa vào ẩn náu và phục kích bằng lực lượng nhỏ gọn, không có chiến tuyến rõ ràng. Tuy nhiên, để chính xác thì quân Thân Cảnh Phúc dùng gọi là kỳ binh. Về cách đánh, kỳ binh cũng giống như du kích thời hiện đại là lấy chiến thuật phục kích, ẩn náu làm căn bản. Kỳ binh cũng dùng các lực lượng nhỏ, đánh nhanh rút gọn. Điểm khác biệt căn bản giữa hai loại hình khiến ta phải phân biệt chính là kỳ binh tuy chia nhỏ nhưng vẫn có đội ngũ, có tổ chức theo kiểu quân đội thông thường. Du kích thì có thể ở lẫn trong dân vùng địch chiếm, có thể chiến đấu riêng lẻ và khi cần thiết mới tập họp thành đội ngũ. Kỳ binh của Thân Cảnh Phúc lấy núi rừng động Giáp làm căn cứ địa, hoạt động mạnh khắp vùng Lạng Châu. Vùng này nằm trên tuyến đường Thiên lý nối liền từ địa giới nước Tống thẳng tới Thăng Long.

Trang phục của quân đội Thân Cảnh Phúc
Để vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí thì dân phu của Tống nhất định phải đi qua. Chiến sự kéo dài và sự quấy rối của quân Thân Cảnh Phúc khiến cho quân Tống vô cùng khốn đốn. Sử nước Tống mô tả Thân Cảnh Phúc: "Quân Tống thừa thắng chiếm châu Quang Lang (Lạng Châu), viên Tri châu là con rể nhà vua, bèn trốn vào trong đám cỏ, thấy quân Tống thì ra giết chết hoặc bắt về xẻo thịt ăn. Người ta cho là vị Thiên thần". Quân Tống phải cắt lính từ chiến tuyến bờ bắc Như Nguyệt ngược lên vùng Lạng Châu để đối phó với Thân Cảnh Phúc, bảo vệ tuyến hậu cần. Dân phu làm nhiệm vụ vận chuyển cũng phải căng mình ra chiến đấu cùng binh sĩ Tống.
Thân Cảnh Phúc thừa thế, càng tung quân hoạt động rộng khắp tới cả vùng Bắc Giang, uy hiếp cả mặt lưng khối đại quân của Quách Quỳ. Tại đây vùng Bắc Giang, ông gặp phải những lực lượng lớn của quân Tống, dẫn đến giao tranh ác liệt. Trong một trận chiến tại Lục Ngạn (Bắc Giang), Thân Cảnh Phúc chẳng may tử trận.
Phò mã áo chàm Thân Cảnh Phúc ngã xuống, nhưng cuộc chiến đấu của ông vẫn được tiếp tục bởi các lực lượng người dân tộc thiểu số châu mục. Thành quả cuộc chiến tiêu hao mà Thân Cảnh Phúc là người khởi đầu và lãnh đạo rất lớn. 20 vạn dân phu Tống chịu không nổi cực khổ, lại bị phục giết thường xuyên sau gần hai tháng trời đã chết đến quá nửa. Số dân phu còn lại vật vờ gồng mình làm việc quá sức, phần lớn cũng bị bệnh tật, ốm yếu. Hậu quả là đại quân của Quách Quỳ đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt bị cạn lương thảo. Từng xuất ăn của quân Tống bị cắt bớt trầm trọng, thuốc thang chữa bệnh thiếu thốn dẫn đến sức chiến đấu suy giảm mạnh. Quân Tống lúc kéo sang có 10 vạn, lúc hội quân ở bến Như Nguyệt còn hơn 9 vạn. Sau khi giao chiến với quân giữ phòng tuyến thì quân Tống hao hụt còn lại hơn 8 vạn. Tuy quân số còn đông như thế, nhưng số quân khỏe mạnh chỉ còn hơn một nửa. Số quân Tống còn lại bị bệnh tật hoặc suy nhược, hiệu quả chiến đấu kém đi nhiều. Thậm chí có những quân lính Tống chết vì bệnh tật đói khát. Sử sách nước Tống, cũng như các lời tâu trình của tướng lĩnh Tống về nước cũng phải thừa nhận tình cảnh bi đát mà quân Tống phải chịu. Nhưng họ không dám nói thẳng nguyên do mà nói tránh, đổ hết tại “nóng nực, lam chướng”.
Đó là cách mà sử sách các triều đại Trung Hoa vẫn dùng để lý giải cho các thất bại quân sự ở nước ngoài. Thực sự thì, quân Tống lâm vào tình cảnh khốn đốn nguyên do chính là vì thiếu lương thực và thuốc men, mà thiếu lương thực thuốc men là do dân phu bị chết mòn. Dân phu Tống là những dân phía nam nước Tống, quen với thủy thổ hơn là binh lính chiến đấu nhưng lại chết nhiều một phần cũng do lao lực, nhưng phần nhiều là do bị Thân Cảnh Phúc và các đội kỳ binh đánh giết. Chiến công này của Thân Cảnh Phúc và quân dân vùng biên thùy phía bắc góp phần quan trọng vào cuộc chiến. Nhờ vào đó, Thái úy Lý Thường Kiệt có đủ điều kiện để sớm tung ra những đòn kết liễu quân Tống, trước khi liên quân Chiêm Thành và quân Khmer kịp đánh tới từ phía nam.

Lý Thường Kiệt siết vòng vây, hàng vạn quân Tống chôn chân chờ chết

   Toàn cục trận chiến kép, quân Tống ở cả doanh trại Triệu Tiết và đại doanh của Quách Quỳ tổng số chết đến gần 5 vạn quân. Cộng với quân số đã hao hụt từ trước đó, Quách Quỳ còn trong tay không tới 4 vạn quân mà một số lớn là mệt mỏi ốm yếu.

Từ khi Quách Quỳ đem quân Tống vượt biên ải, chỉ trong vòng 10 ngày đã tiến đến bờ bắc sông Phú Lương. Vua Tống Thần Tông ban đầu nghe tin báo về trong bụng lấy làm vui mừng, đích thân lấy bản đồ mà chỉ dẫn cho các quan lại Tống triều biết về đường tiến của quân Tống. Thế nhưng niềm vui của vua Tống là quá sớm và cũng nhanh chóng bị dập tắt. Kể từ khi quân Tống bị chặn lại ở bến Như Nguyệt, ngày này qua ngày khác tin tức báo về triều Tống là quân của Quách Quỳ vẫn chôn chân tại chỗ, tiến công đều bị thất bại và chịu tổn thất. Vua Tống rất nóng lòng, sai phát thẻ bài đặc biệt cho lính đưa thư để đi qua các dịch trạm không phải dừng, hàng ngày báo quân tin liên tục về triều đình.
Quách Quỳ biết rằng thế phòng thủ ở bờ nam Như Nguyệt rất vững chắc nên sau hai lần vượt sông thất bại, y nhất quyết án binh bất động. Quách Quỳ bàn với các thuộc hạ giả cách lơ là, nhử quân Đại Việt sang đánh. Nhưng kế này đã bị Lý Thường Kiệt biết thừa. Vì thế, thay vì tung quân đánh lớn, quân Đại Việt chỉ cho thủy quân xuôi dòng sông Phú Lương đánh nhử và quấy rối quân Tống. Lúc này thì quân Tống lại phải căng sức ra để tuần ra dọc sông, đặt máy bắn đá bắn các thuyền chiến Đại Việt và bắn sang bờ nam. Quân Đại Việt thấy vậy cũng án binh bất động, giữ kỹ chiến tuyến. Chiến cuộc cứ thế kéo dài gần hai tháng trời. Lúc này thì quân Tống không cần phải giả yếu, mà đã yếu thật. Tình trạng thiếu lương thực, thuốc men, không hợp thủy thổ đã làm suy sút tinh thần và và sức chiến đấu của quân Tống rất nhiều. Nắm được thời cơ đó nên vào cuối tháng 2.1077, Lý Thường Kiệt quyết định chủ động tấn công.

Mở màn cuộc tấn công, 400 chiến thuyền chở 2 vạn thủy quân Đại Việt dưới trướng của Hoằng Chân, Chiêu Văn từ căn cứ Vạn Xuân được lệnh xuất kích, tấn công quân Tống từ hướng đông. Đại doanh quân Tống lúc này có khoảng hơn 5 vạn quân. Cuộc tấn công của thủy quân Vạn Xuân là đòn nghi binh, theo kế dương đông kích tây mà Lý Thường Kiệt vạch ra. Tuy vậy cuộc tấn công này không chỉ là đòn hư, mà là một đòn tấn công thực sự mạnh mẽ. Thủy quân Đại Việt đổ bộ lên chân núi Nham Biền, đẩy lui 5.000 kỵ binh địch đóng tại đây.
Sau khi chiếm được núi Nham Biền, quân đổ bộ Đại Việt từ trên núi đánh xuống thật mạnh vào đại doanh của Quách Quỳ. Lớp lớp quân đổ bộ Đại Việt đánh tràn vào khu trung tâm căn cứ của Quách Quỳ, chọc thủng mấy hàng phòng thủ ngoại vi. Quách Quỳ đều toàn bộ các tướng kỵ binh còn lại tung vào trận. Kỵ binh Tống mang sang nước ta chừng 1 vạn, thì nay còn lại 7.000 quân kỵ đều tham chiến. Những tướng giỏi nhất của Tống là Yên Đạt, Tu Kỷ, Nhâm Khởi,  Thế Cự, Vương Mãn, Lý Trường, Điền Chưng… đều ra sức chiến đấu.
Một trận giao tranh đẫm máu diễn ra, hai bên đều thương vong lớn. Một phần quân Tống từ hướng bản doanh của tướng Triệu Tiết và quân các cụm trung gian nằm giữa hai khối quân của Quách Quỳ, Triệu Tiết cũng được điều động sang tiếp viện. Trước sức mạnh của kỵ binh Tống, thủy quân Đại Việt vốn có khả năng đánh bộ yếu hơn, dần yếu thế. Nhận thấy cuộc tấn công đã gây nhiều thiệt hại và xáo trộn cho địch, hoàn thành nhiệm vụ nghi binh và tiêu hao, thủy quân Đại Việt rút lui. Quân Tống dùng máy bắn đá bắn với theo thuyền, làm cho quân ta thiệt hại rất nhiều. Hàng ngàn quân Đại Việt tử trận trong cuộc tấn công này, trong đó có cả hai hoàng thân Hoằng Chân, Chiêu Văn. Hoằng Chân, Chiêu Văn xuất hiện trong sử sách luôn luôn sóng đôi với nhau.
Hai vị này đều là con trai của vua Lý Thái Tông, em trai của vua Lý Thánh Tông và là chú ruột của vua Lý Nhân Tông thời bấy giờ. Hai ông dù địa vị hoàng thất mà không ngại xông pha đầu trận tuyến, xả thân vì đại cuộc, đến đây thì tử trận. Đội thân binh 500 người dưới trướng Hoằng Chân cảm khái trước sự hy sinh của chủ tướng, thà chết không chịu rời thuyền, chiến đấu đến cùng. Mặc cho thuyền bị quân Tống bắn chìm, tay cầm kim bài mà chết theo chủ tướng. Thủy quân đổ bộ Đại Việt còn lại hơn 1 vạn, giong thuyền rút lui an toàn.
Đòn tấn công của thủy quân Đại Việt tuy rất mạnh nhưng chỉ là đòn nghi binh. Trong lúc bố trí lực lượng của quân Tống bị xáo trộn do cuộc tấn công của thủy quân, lợi dụng trời tối Lý Thường Kiệt tung quân đánh đòn quyết định. Toàn bộ 4 vạn quân còn lại ở phòng tuyến Như Nguyệt do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy chớp thời cơ đang đêm dùng thuyền vượt sông đánh thẳng vào doanh trại của tướng Triệu Tiết. Lực lượng tại doanh trại của Triệu Tiết lúc này còn khoảng trên 3 vạn quân nhưng sức chiến đấu đã suy giảm nhiều. Quân trong doanh Triệu Tiết đã yếu, quân ở các cụm trung gian gần đó lại đã điều sang tiếp viện cho đại doanh của Quách Quỳ nên gần như cụm quân của Triệu Tiết bị cô lập.
Quân Đại Việt hừng hực khí thế, thình lình tiến công khiến cho quân tướng trong doanh của Triệu Tiết vô cùng bất ngờ, trở tay không kịp. Quân Đại Việt dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lý Thường Kiệt nhanh chóng làm chủ hoàn toàn trận địa, thả sức chém giết quân Tống. Hầu như toàn bộ quân trong doanh trại của Triệu Tiết bị tiêu diệt. Tiết cùng một số ít tàn quân chạy thục mạng về đại doanh của Quách Quỳ. Toàn cục trận chiến kép, quân Tống ở cả doanh trại Triệu Tiết và đại doanh của Quách Quỳ tổng số chết đến gần 5 vạn quân. Cộng với quân số đã hao hụt từ trước đó, Quách Quỳ còn trong tay không tới 4 vạn quân mà một số lớn là mệt mỏi ốm yếu. Về phía quân Đại Việt, trải qua giao chiến quân số ở toàn chiến tuyến Như Nguyệt vẫn còn hơn 5 vạn quân, lại hoàn toàn khỏe mạnh nhờ hậu cần đầy đủ.
Quân Đại Việt chiếm lĩnh doanh trại của Triệu Tiết, đối trận ngay tại bờ bắc Như Nguyệt với khối quân mệt mỏi của Quách Quỳ. Dưới sông thủy quân Đại Việt vẫn còn một lực lượng đáng kể dù cho mất đi hai vị hoàng thân Hoằng Chân, Chiêu Văn cùng hàng ngàn quân trong đợt tấn công vào đại doanh Quách Quỳ. Thế và lực hoàn toàn thuận lợi cho quân ta.
Lúc này, quân Đại Việt hoàn toàn có thể thừa thắng dứt điểm luôn số quân tướng còn lại của quân Tống. Nhưng rõ ràng là bấy giờ Đại Việt không chỉ phải đối phó với một kẻ thù. Từ phương nam, đầu năm 1077 liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp do đích thân vua Harivarman IV của nước Chiêm Thành trực tiếp chỉ huy cũng đã bắt đầu tấn công Đại Việt. Hiện tại, sử liệu về mặt trận phía nam quá khiêm tốn để có thể miêu tả chi tiết. Nước Chiêm Thành, Chân Lạp thời này do những hạn chế về hệ thống nhà nước, hậu cần tương đối kém so với nước Tống nên thường khó mà huy động những lực lượng viễn chinh lớn.
Quân số của liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp cộng lại ước chừng dao động từ 1 - 2 vạn quân, trong đó có 7.000 thủy quân Chiêm Thành. Liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp đã tiến chiếm được các châu Minh Linh, Bố Chính, Lâm Bình. Binh lực Đại Việt ở đây khá mỏng nên chỉ trong thời gian ngắn đã không giữ nổi. Quân của hai nước Chiêm Thành – Chân Lạp tràn vào Nghệ An, Diễn Châu. Chiến sự tại những nơi này đã diễn ra khá gay gắt, tin tức chiến trường từ phía nam liên tục báo về triều đình nhà Lý. Quân Đại Việt tại vùng Diễn Châu, Nghệ An gồm có lộ quân (quân địa phương tại các châu, phủ) làm nòng cốt, dân quân (dân trong làng, xã sung quân), cùng với hàng ngàn tù binh Tống bị bắt trong chiến dịch phạt Tống 1076 bị ép sung quân.
Hiển nhiên với lực lượng như thế thì phía Đại Việt chỉ có thể giữ thế phòng thủ để kéo dài thời gian. Tại Chân Lạp, vua Harshavarman III lại chuẩn bị một đạo quân thứ hai gởi sang Chiêm Thành, dự tính sẽ theo đường biển tiếp viện cho liên quân đang tấn công Đại Việt. Chiến sự phía nam đòi hỏi Lý Thường Kiệt phải có một giải pháp vừa nhanh gọn với quân Tống, vừa phải bảo toàn được quân lực để bảo vệ đất nước.
Bấy giờ tuy quân Tống đã khốn quẫn, nhưng nếu bị tấn công rất có thể sẽ tử chiến đến cùng trong thế không còn đường lui. Như vậy sẽ khó tránh đổ máu lớn cho quân Đại Việt để giành phần thắng trọn vẹn. Lý Thường Kiệt hiểu rằng, Đại Việt so với Tống thời bấy giờ là một nước nhỏ hơn hàng chục lần, nếu chiến tranh liên miên ắt khó tránh được nhiều tang thương. Thêm nữa, mối đe dọa của Đại Việt không chỉ có một mình nước Tống. Chiêm Thành, Chân Lạp quốc lực cũng không đến nỗi quá thua kém Đại Việt, có thể thừa cơ đánh úp bất cứ lúc nào. Trước tình hình trên, Lý Thường Kiệt đã chủ động cho sứ giả sang trại của quân Tống để “xin hòa”.

Việt - Tống nghị hòa, lân bang kinh hãi

   Quân Tống đi mười phần thì về chưa được ba phần. Khi kiểm binh, trong số 10 vạn lính chiến đấu đã ra đi chỉ còn 23.400 lính trở về, ngựa chiến thì còn lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Phí tổn chiến tranh được người Tống tính ra là 5.190.000 lạng vàng, một con số khủng khiếp.

Sau khi đánh tan tác cụm quân của Triệu Tiết, diệt đến gần sáu phần mười tổng số quân giặc, Lý Thường Kiệt chủ động bàn hòa, mở một lối thoát cho quân Tống, cũng là một lối thoát cho hòa bình để đỡ tốn xương máu của cả hai bên. Bước đi hòa hoãn của Lý Thường Kiệt đã được tính toán rất kỹ. Lý Thường Kiệt bàn với các tướng sĩ: “dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng sĩ, đỡ tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu”. Sứ giả mang thư của triều đình nhà Lý gởi cho Quách Quỳ. Thư viết rằng: “… Xin hạ chiếu rút đại quân về, sẽ lập tức sai sứ sang tạ tội và triều cống …”. Rõ ràng bao nhiêu tâm huyết mà nước Tống đổ vào cuộc xâm lược đâu chỉ để đổi lấy việc cầu hòa suông như thế. Nhưng nay tình thế quá bi đát, việc cầu hòa của Đại Việt như chiếc phao cho Quách Quỳ bám víu, tránh khỏi thảm cảnh toàn quân bị diệt. Quách Quỳ chấp nhận giảng hòa, bàn với các tướng: “Ta không đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức để báo mệnh triều đình. Đó là ý trời ! Thôi ta đành liều một thân ta chịu tội với triều đình, để mong cứu hơn mười vạn nhân mạng”. (10 vạn nhân mạng mà Quỳ nói là tính cả quân và phu của Tống cho đến thời điểm này).
Triều đình Đại Việt mang biểu của vua Lý Nhân Tông giao cho Quách Quỳ để chuyển tới vua Tống. Quân hai nước định ngày để cho Tống rút quân. Thế nhưng Quách Quỳ sợ quân ta bội ước mà đánh nên đang đêm đốc thúc quân sĩ lui gấp, hàng ngũ rối loạn giày xéo lẫn nhau mà chạy. Tướng Tống là Đào Bật cùng đội thân binh nhận nhiệm vụ rút sau chặn hậu. Quân Đại Việt không truy kích, chỉ theo sau đường quân Tống rút mà chiếm lại đất đai. Quân Tống rút lui nhưng không về hẳn nước Tống mà lại đóng quân chiếm lấy các châu Quảng Nguyên, Quang Lang, Tô Mậu, Môn Châu, Tư Lang nằm gần biên giới toan chiếm cứ. Lý Thường Kiệt xua quân tiến chiếm lại các châu Quang Lang, Tô Mậu, Môn Châu, Tư Lang. Quân Tống rút về tập trung ở Quảng Nguyên. Triều đình Đại Việt chủ trương dùng biện pháp ngoại giao để điều đình đòi lại vùng Quảng Nguyên. Từ đây chiến tranh Tống – Việt đã kết thúc, nhưng cuộc đấu tranh ngoại giao đòi đất bắt đầu.
Sau khi đánh lui được quân Tống, Đại Việt đã giải tỏa được thế lưỡng đầu thọ địch. Liên quân Chiêm Thành – Chân Lạp thiếu đi sự phối hợp của quân Tống như rắn mất đầu. Ưu thế nghiêng hẳn về phía Đại Việt. Chính thế vậy mà ngay sau khi biết tin quân Tống rút lui, vua Harivarman IV cũng lui quân. Quân Chiêm Thành rút lui nhưng vẫn lưu lại chiếm giữ ba châu Minh Linh, Bố Chính, Lâm Bình. Vào khoảng cuối năm 1077 đến năm 1079, quân Đại Việt quay mũi giáo về phương nam để “hỏi tội” nước Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt chính là người chỉ huy cuộc chinh phạt này. Quân Đại Việt chẳng những thu hồi lại nhanh chóng các vùng lãnh thổ mà Chiêm Thành thừa cơ chiếm đóng mà còn tiến chiếm kinh đô Vijaya. Vua Harivarman IV phải rút quân về vùng cao nguyên phía Tây để bảo toàn lực lượng và gởi thư cầu hòa. Lý Thường Kiệt nhân đó chấp nhận hòa đàm và rút lui. Bấy giờ, một cánh quân Khmer (Chân Lạp) gởi sang Chiêm Thành để tiếp viện cho quân Chiêm chống lại quân Đại Việt do hoàng thân Khmer Sri Nandanavarmadeva chỉ huy vẫn đang đóng quân tại địa khu Panduranga của Chiêm Thành. Nhận được tin Chiêm – Việt nghị hòa, Sri Nandanavarmadeva tức giận cho rằng vua Chiêm Thành đã phản bội đồng minh, bèn tung quân chiếm luôn Panduranga, chính thức trở mặt gây chiến với Chiêm Thành.
Như vậy là, sau khi thất bại trong việc liên minh sâu xé Đại Việt thì hai nước này quay sang đánh lẫn nhau. Một lần nữa, Lý Thường Kiệt lại phải đem quân vào Chiêm Thành nhưng khác với những lần trước, ông đem quân giúp đỡ nước Chiêm Thành chống lại quân Khmer theo lời thỉnh cầu của vua Harivarman IV. Có được sự giúp đỡ của Đại Việt, quân Chiêm Thành nhanh chóng đẩy lùi được quân Khmer khỏi bờ cõi, truy kích tận sang đất Khmer. Vua Harivarman IV tấn công kinh thành Angkor, giết chết vua Khmer Harshavarman III, đẩy Khmer vào thời kỳ loạn lạc. Từ đây, quan hệ Đại Việt – Chiêm Thành trở lại hòa thuận.
Về phía nước Tống, sau khi Quách Quỳ rút quân và gởi biểu “xin hàng” của vua Lý về triều đình (3.1077 ), vua Tống rất tức tối, ý muốn đánh liều dốc thêm quân lính tiếp viện để Quách Quỳ quay lại đánh tiếp, nhưng phân vân vì quốc lực đã hao tổn quá nhiều. Quần thần Tống triều biết vậy, hết sức dùng lời can gián vua Tống. Tể tướng đương nhiệm của Tống bấy giờ là Ngô Sung bấy giờ thay mặt quần thần dâng biểu “mừng công” lên vua Tống. Trong đó có ý chúc mừng vua Tống đã “dẹp yên An Nam, lấy được Quảng Nguyên”. Tống Thần Tông nhận thấy rằng tuy Tống chịu tổn thất nhưng phía Đại Việt đã biết giữ thể diện cho Tống, dâng biểu cầu hòa, bèn hạ lệnh bãi binh, chấp nhận nghị hòa.
Quân Tống đi mười phần thì về chưa được ba phần. Khi kiểm binh, trong số 10 vạn lính chiến đấu đã ra đi chỉ còn 23.400 lính trở về, ngựa chiến thì còn lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Phí tổn chiến tranh được người Tống tính ra là 5.190.000 lạng vàng, một con số khủng khiếp. Mọi mục tiêu chiến lược của Tống đề ra trước chiến tranh như sung công của cải, biến Đại Việt thành quận huyện đều không thực hiện được. Nước Tống đã gần như cố gắng ở mức cao nhất để đổ dồn vào cuộc xâm lược Đại Việt nhưng vẫn thất bại. Vì vậy, không còn cách nào khả dĩ hơn là hòa đàm với Đại Việt. Vào khoảng tháng 3.1077, vua Tống gởi thư cho Đại Việt chấp nhận nghị hòa, yêu cầu Đại Việt phải trở lại triều cống và trao trả tù binh. Chiến tranh giữa hai nước chính thức kết thúc trên danh nghĩa.
Đại Việt giao phong với Tống cũng chịu tổn thất nhiều, thiệt hại cũng đến hàng vạn người. Những vùng khê động mà quân Tống đi qua đều xơ xác bởi sự giết chóc và vơ vét của quân giặc. Các thế lực trung thành với triều đình nhà Lý trước đây như họ Thân ở Động Giáp, họ Lưu ở Quảng Nguyên đều chịu tổn thất nặng nề. Tuy đã kết thúc chiến tranh nhưng đất đai Đại Việt bị nước Tống chiếm đóng một phần. Vậy nên chiến thắng của Đại Việt vẫn chưa trọn vẹn. Lý Thường Kiệt trong năm 1077 vẫn đóng quân ở biên giới, chiếm lại các vùng đất đã mất. Lần lượt các châu động trở về với Đại Việt bằng con đường vũ lực. Duy chỉ còn châu Quảng Nguyên là khó có thể dùng quân đánh chiếm bới quân Tống dồn về đây dựng lên những cứ điểm kiên cố. Lý Thường Kiệt đóng quân uy hiếp quân Tống ở châu Quảng Nguyên. Cùng với đó là chính sách đòi đất bằng ngoại giao của triều đình Đại Việt.
Đối với việc ngoại giao với nước Tống, triều đình ta luôn tỏ vẻ khiêm nhường, chấp nhận coi Tống là một nước lớn, mình là nước nhỏ. Nhưng thái độ với đất đai lãnh thổ, nước ta lại rất cương quyết. Mùa xuân năm 1078, sứ bộ Đại Việt do sứ thần Đào Tông Nguyên sang Tống điều đình đòi lại Quảng Nguyên và những tù binh bị Tống bắt. Đại Việt tặng Tống 5 con voi thuần, hứa trả lại các tù binh Tống đã bị bắt trong chiến tranh. Châu Quảng Nguyên trong mắt người Tống là một món lợi bởi ở đây bấy giờ có mỏ vàng. Tuy nhiên sau một thời gian chiếm đóng, nước Tống đã nhận ra việc chiếm giữ vùng này lại hại nhiều hơn lợi. Bởi vì đóng ít quân thì tất quân ta sẽ dễ dàng chiếm lại như các châu Quang Lang, Tô Mậu, Tư Lang mà đóng nhiều quân thì phí tổn lại cao. Châu Quảng Nguyên đối với dân khê động Đại Việt là đất lành, nhưng đối với dân Tống thì lại là đất dữ. Quân Tống đóng giữ tại đây không quen thổ nhưỡng, chết lần chết mòn, hết lớp này đến lớp khác thay thế.
Quân Tống hễ ai có lệnh gọi đi thú ở Quảng Nguyên thì từ biệt vợ con như là đi chết, lính Quảng Nguyên đào ngũ rất nhiều. Tống triều đã chán ngán đất Quảng Nguyên nhưng vẫn không thể vô cớ trả đất, vì sẽ mất thể diện thêm. Nay nhân việc Đại Việt cử sứ giả sang, vua Tống nhanh chóng nhận lời trả đất. Vua Tống nói với những quan lại còn luyến tiếc: “Vì Càn Đức đã phạm thuận, ta mới sai quân đi hỏi tội. Quách Quì đã không đánh lấy được kinh đô nó. Mà nay, Thuận Châu (tên mà Tống đặt cho Quảng Nguyên sau khi chiếm đóng) là đất lam chướng. Triều đình được đất ấy cũng chưa có lợi. Lẽ nào lại còn tự mình xua thú binh vào nơi nước độc. Một người bị chết, Trẫm còn thương xót huống chi mười người chết mất năm sáu”. Những người Tống không hiểu chuyện, vì tiếc nguồn lợi mỏ vàng ở Quảng Nguyên mà đi làm thơ mỉa mai triều đình Tống :
“Vì tham voi Giao Chỉ
Bỏ mất vàng Quảng Nguyên”.

Thua trận, nhà Tống còn đòi bắt Lý Thường Kiệt như tội phạm chiến tranh

   Việc trao trả tù binh là thường tình sau chiến tranh. Nhưng những “tội phạm chiến tranh” mà Tống yêu cầu xét xử không ai khác chính là những người đã làm nên chiến thắng của Đại Việt, mà đứng đầu chính là Thái úy Lý Thường Kiệt.

Tống hứa trả đất nhưng cũng có kèm theo điều kiện, chính là trả tù binh và xử những “tội phạm chiến tranh”. Việc trao trả tù binh là thường tình sau chiến tranh. Nhưng những “tội phạm chiến tranh” mà Tống yêu cầu xét xử không ai khác chính là những người đã làm nên chiến thắng của Đại Việt, mà đứng đầu chính là Thái úy Lý Thường Kiệt. Đó có thể xem là một động thái ly gián của nước Tống. Tuy nhiên, cả về phía triều đình Đại Việt và Lý Thường Kiệt đều tin cậy lẫn nhau, và bác bỏ yêu sách vô lý này với lời lẽ khéo léo. Đại Việt chỉ chấp nhận trả tù binh, Tống cũng trả đất mà không đòi hỏi gì thêm. Ngoài mặt Tống luôn ra vẻ bề trên, nhưng rõ ràng không thể không ngán ngại Đại Việt. Vua Tống vẫn lo sợ Đại Việt tức giận sẽ xua quân tấn công. Trong năm 1078, Tống chính thức giao lại châu Quảng Nguyên cho Đại Việt. Khi tiếp sứ giả, Tống triều đối xử rất tử tế và sắp xếp tránh cho sứ giả Đại Việt và Chiêm Thành đụng mặt nhau. Bởi sợ rằng Đại Việt sẽ nghi ngờ Tống vẫn ngầm bàn mưu với nước Chiêm Thành.
Đại Việt hứa rằng sẽ trao trả tù binh chiến tranh cho Tống nhưng số tù binh bị bắt ở chiến dịch đánh phủ đầu Tống năm 1075 – 1076 đã bị chết nhiều, chỉ còn lại một số. Nguyên là Đại Việt thiếu nhân lực nên bắt số tù binh đi khai khẩn đất đai và sung quân, điều vào vùng Nghệ An để phòng thủ Chiêm Thành. Đàn ông trên 20 tuổi lớn tuổi bị thích vào trán chữ Đầu Nam Triều, thanh thiếu niên trên 15 tuổi bị thích chữ Thiên Tử Binh. Một số tù binh này đã tử trận trong chiến đấu. Một số khác thì chết do nhiều do bệnh tật, lao động quá sức và nhiều nguyên nhân khác. Lại có số ít đã bỏ trốn. Tù binh Tống là phụ nữ thì bị thích vào tay chữ Quan Khách, phải làm nô lệ cho nhà nước.
Trong năm 1079, Đại Việt gom các tù binh trao trả cho Tống chỉ được còn vài trăm người trong số hàng ngàn người bị bắt. Các tù binh bị nhốt trong những con thuyền bịt kín hết cửa sổ để cho không phân biệt được ngày đêm, không nhìn được cảnh vật. Dân Tống đã được trả về rồi, phía Tống còn đòi thêm nhưng Đại Việt báo rằng chỉ còn bấy nhiêu đó mà thôi. Tống trả Quảng Nguyên cho ta rồi nhưng lại cắt xén những chỗ hiểm yếu thuộc châu này mà sát nhập vào đất Tống. Đó là các động Vật Dương, Vật Ác. Phía Tống lấy cớ rằng đất đó là do tù trưởng dâng cho Tống nên không thể trả lại. Đại Việt vì việc này mà nhiều lần cử sứ giả sang đòi đất. Chúng ta thấy rằng, cuộc chiến ngoại giao để bảo toàn lãnh thổ không hề đơn giản. Chiến tranh kết thúc vào năm 1077, nhưng việc đòi đất của Đại Việt còn kéo dài gần một thập niên sau đó. Năm 1083, sứ bộ Đào Tông Nguyên lại sang đàm phán với sứ Tống ở trại Vĩnh Bình.
Sứ Tống đôi co mãi với sứ ta, không bằng lòng chuyển quốc thư lên vua Tống. Sứ giả Đại Việt bất bình bỏ về. Lý Nhân Tông sai kiểm binh đóng ở biên giới, uy hiếp Vật Dương, Vật Ác để gây thanh thế. Tống triều cũng thêm quân để phòng thủ, di dời những tù trưởng đã dâng đất Đại Việt cho Tống vào ở sâu trong nội địa nước Tống để bảo vệ. Tù trưởng Nùng Trí Hội, Nùng Tông Đán là những người đã phản bội Đại Việt mà dâng đất cho Tống. Những người này là tội nhân khiến Đại Việt rất bất bình nhưng lại được nước Tống hết sức che chở. Quan hệ hai nước lại trở nên căng thẳng. Tuy nhiên, triều đình Đại Việt dưới chủ trương mềm mỏng, giữ hòa bình để phát triển của Linh Nhân Hoàng thái hậu đã cố gắng dùng ngoại giao để thu xếp. Đến năm 1084, sứ bộ Đại Việt do trạng nguyên Lê Văn Thịnh dẫn đầu lại sang Tống đòi đất. Tống tổ chức hội nghị tại châu Vĩnh Bình. Quan tiếp sứ Tống là Thành Trạc trả lời rằng: “Những đất mà quân nhà vua đã đánh lấy thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất mà các người coi giữ lại mang nộp để theo ta thì khó mà trả lại”.
Lê Văn Thịnh đối đáp: “Đất thì có chủ, các viên coi giữ mang nộp và trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Việc chủ giao đất cho mà tự ý lấy trộm đã không tha thứ được thì kẻ ăn trộm hay người tàng trữ vật ăn trộm, pháp luật cũng không dung. Huống chi nay chúng lại mang đất ăn trộm để dâng thì chỉ làm nhơ bẩn sổ sách nhà vua”.
Trước thái độ cương quyết của Lê Văn Thịnh, Tống chấp nhận cắt thêm đất để giao cho ta. Sáu huyện Bảo Lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng, Can cùng với hai động Túc, Tang giao cho Đại Việt. Phía Tống muốn coi như lấy những vùng đất này để đổi lại Vật Dương, Vật Ác. Đây có thể coi là một thành công về ngoại giao của phái đoàn Lê Văn Thịnh. Tuy Đại Việt nhận những đất này, nhưng coi đây là đất đương nhiên Tống cần phải trả bởi trên thực tế đây là những đất nằm ngoài cửa ải của Tống mà họ hoàn toàn không có điều kiện để chiếm hữu thực địa. Sứ bộ Đại Việt vẫn tiếp tục đòi đất Vật Dương, Vật Ác. Công cuộc ngoại giao này dần trở nên vô vọng. Năm 1085, vua Tống Thần Tông mất. Vua kế vị là Tống Triết Tông lên ngôi, nhận được thư của vua Lý Nhân Tông đã trả lời rằng: “Trẫm đã xét kỹ lời biểu của Khanh xin cương thổ các động Vật Ác, Vật Dương. Đời Tiên đế, Khanh đã bày tỏ việc cương giới. Tiên đế đã giáng chiếu dụ, đầu đuôi rõ ràng. Đã đặc biệt theo lời Khanh cầu, mà cắt đất cho. Nay Trẫm đọc lời tâu, bất ngờ còn thấy Khanh bày tỏ kêu ca điều ấy. Trẫm vừa nối nghiệp, hành động phải theo mệnh trước. Nghị định trước đã rõ, nay khó lòng mà đổi được. Khanh phải trung thuận, nhất nhất phải tuân theo lời chiếu trước.”
Các lần cử sứ sang Tống đưa thư vào những năm 1085, 1086, 1087, 1088 đều không mang lại kết quả gì hơn. Trái lại, Tống còn tăng quân phòng thủ biên giới. Phía nước Tống cho rằng họ đã dứt nợ với Đại Việt vì đã “ban” cho Đại Việt những đất 6 huyện, 2 động để đổi lấy Vật Dương, Vật Ác rồi. Có vẻ như, triều đình Đại Việt cũng không muốn vì việc đòi những vùng đất nhỏ bé này mà khơi màu xung đột, chỉ chuyên tâm vào công cuộc gây dựng lại đất nước sau chiến tranh và dồn sức khôi phục lại thế mạnh ở phương nam. Vả lại, nước Tống bấy giờ đã không còn coi thường Đại Việt như xưa, thường xuyên đóng quân mạnh ở biên thùy Đại Việt để phòng thủ. Nếu như Đại Việt muốn dùng vũ lực hẳn sẽ phải có chiến tranh quy mô lớn.
Về sau này, thế lực nước Tống đi xuống thảm hại và bị nước Kim mới nổi ở phía bắc uy hiếp. Trong khi đó, Đại Việt dưới thời Lý Nhân Tông đã đến thời kỳ cực thịnh, binh hùng tướng mạnh, quốc lực dồi dào. Có vẻ như là thời cơ thuận lợi cho Đại Việt bắc tiến. Tuy nhiên, ở phương nam nước Chiêm Thành vẫn luôn thể hiện thái độ “sớm hòa, tối đánh” với Đại Việt. Họ cứ chực chờ cơ hội là đem quân cướp phá. Đặc biệt nghiêm trọng, thời bấy giờ đế chế Khmer (Chân Lạp) cũng phát triển đến mức cực thịnh dưới sự cai trị của vua Suryavarman II.
Lãnh thổ của đế chế Khmer bấy giờ rộng lớn gấp gần mười lần nước Đại Việt, tiếp giáp Đại Việt cả phía tây và phía tây nam. Khmer coi Đại Việt là miếng mồi ngon với tài nguyên và của cải dồi dào bậc nhất khu vực Đông Nam Á lục địa. Nước Đại Việt thời kỳ này dồn trọng tâm về phương nam để phòng bị vì nước Tống đã suy yếu mà Khmer lại nổi lên mạnh mẽ. Quả thực, về sau quân Khmer dưới sự chỉ huy của vua Suryavarman II đã tấn công xâm lược Đại Việt tận 6 lần. Công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc ta lại tiếp diễn song song với tiến trình xây dựng đất nước.
Quốc Huy
Hậu cuộc Bắc phạt thần thánh của Lý Thường Kiệt

Thua tại Việt Nam, các tướng bị xử ra sao khi về Trung Quốc?

Quân nhà Lý truy kích quân Tống
   Trong lịch sử chống ngoại xâm của nước ta, ông cha ta nhiều lần đánh bại ngoại xâm phương Bắc. Điều đáng lưu ý ở chỗ sử phương Bắc mặc dù không chịu chép việc thua trận nhưng cũng có ghi tưởng tận chuyện xử lý các tướng làm mất mặt triều đình.
Cuộc chiến chống Tống của nhà Lý là một thắng lợi vang dội trong lịch sử Đại Việt. Năm 1077, đại quân của Lý Thường Kiệt đại phá quân của Triệu Tiết, bao vây quân của Quách Quỳ. Tình cảnh của quân Tống đúng là cá nằm trên thớt. Nhưng quân ta mở đường hiếu sinh cho quân xâm lược Tống và cũng là tiết kiệm xương máu cho binh sĩ ta sau khi đã đạt được mục đích cơ bản.
Lý Thường Kiệt bàn với các tướng sĩ: “dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng sĩ, đỡ tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu”. Sứ giả mang thư của triều đình nhà Lý gửi cho Quách Quỳ. Thư viết rằng: “… Xin hạ chiếu rút đại quân về, sẽ lập tức sai sứ sang tạ tội và triều cống…”. Thực ra đây là cách nói ngoại giao giúp cho vua quan nhà Tống giữ được thể diện mà nghe theo. Còn trên thực tế thì ai cũng hiểu quân nhà Lý thắng và mở đường Quách Quỳ rút quân về để khỏi mất mặt. Các cụ nhà ta nói 'đánh chó ngó mặt chủ' nên muốn nhà Tống ngậm bồ hòn làm ngọt chấp nhận các yêu sách của ta thì cũng phải mở đường cho họ tự sướng. Đừng quên nhà Tống thời đó dù hằng năm phải triều cống cho các nước Liêu, Kim nhưng vẫn dùng từ "phong thưởng" nghe cho oai.
Quách Quỳ vớ được thư mở đường mừng quá bèn nói với các tướng sĩ: “Ta không đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức để báo mệnh triều đình. Đó là ý trời! Thôi ta đành liều một thân ta chịu tội với triều đình, để mong cứu hơn mười vạn nhân mạng”. Rồi triều đình Đại Việt mang biểu của vua Lý Nhân Tông giao cho Quách Quỳ để chuyển tới vua Tống. Quân hai nước định ngày để cho nhà Tống rút quân. Tình cảnh của Quỳ không khác gì Thống chế Đức Friedrich Paulus khi phải đầu hàng ở Stalingrad năm 1943.
Khôi hài nhất là khi bại quân về nước, triều đình Tống lại mở tiệc chúc mừng thắng trận. Không hiểu nhà Tống quan niệm về chiến thắng như thế nào nhưng chỉ biết rằng khi kiểm binh, trong số 10 vạn lính chiến đấu đã ra đi chỉ còn 23.400 lính trở về, ngựa chiến thì còn lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Phí tổn chiến tranh được triều Tống tính ra là 5.190.000 lạng vàng.
Đáng lẽ sau khi thắng thì phải luận công ban thưởng nhưng vua Tống bắt đầu luận tội để trừng phạt. Sử Tống bên cạnh ghi các thiệt hại chiến tranh còn ghi cả việc luận tội. Như vậy thì dù không dũng cảm nhận thua thì họ cũng tự vạch chuyện thảm bại tại Việt Nam.
Tội to nhất dĩ nhiên là của Quách Quỳ. Quỳ bị quy tội vì đã trì hoãn không chịu tiến binh. Quỳ bị đổi đi Ngạc Châu, rồi giáng làm tả vệ tướng quân và an trí ở Tây Kinh. Gọi là an trí nhưng thật ra là bị quản thúc, cư tại gia khoảng 10 năm, đó là cách vua thời xưa xử phạt những quan tướng bất tài. Đến khi Tống Triết Tông lên ngôi (năm 1086) Quỳ lại được phục chức làm tri Lộ Châu, Quảng Châu quan sát sử, tri Hà Trung. Năm Nguyên Hựu thứ ba (1088) ốm chết, thọ 68 tuổi.
Nhờ Quỳ nhận tội tự ý nghị hòa và chịu biếm chức, Triệu Tiết chỉ bị kết tội không lập tức dẹp giặc, giáng làm Trực Long Đồ các, tri Quế Châu . Nhưng 5 năm sau (1082) khi bị đổi lên lộ Phu Diên, Tiết tỏ vẻ không bằng lòng, vua Tống mắng rằng: “Triệu Tiết trước đây đi đánh An Nam bị thua, đã được tha không bị tội chết. Nay còn ý oán. Nếu không trừng trị thì còn ai sợ lệnh trên nữa”. Đấy, kim khẩu của vua Tống đã nói rằng Triệu Tiết bị thua nên không hiểu năm 1077 nhà Tống ăn mừng chuyện gì?
Dương Tùng Tiên, đại tướng thống lĩnh thủy quân vốn nằm trong kế hoạch là một mũi nhọn 5 vạn quân thọc vào nước ta từ Biển Đông nhưng bị tướng nhà Lý là Lý Kế Nguyên đánh cho đại bại phải rút về nước cố thủ. Trong đợt 'luận công' này, Dương Tùng Tiên cũng có phần. Tục Tư trị thông giám trường biên nói rằng lúc đầu họ Dương cũng bị xử tội nhưng về sau được ân xá.
Anh Tú

Ta đối xử với tù binh bắt được trên đất Trung Quốc thế nào?

   Lý Thường Kiệt đã tận dụng tù binh để cho những việc nguy hiểm nhất. Trong cuộc chiến nhiều xương máu này, quân ta cũng mất đến vạn rưởi. Nếu không dùng tù binh công thành thì e rằng xương máu quân Đại Việt còn tốn hơn.

Chiến tranh Việt - Tống, 1075-1077 là tên gọi cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc vào cuối thế kỷ 11 là một chương sử chói lọi trong dân tộc ta. Điểm khác biệt của cuộc chiến tranh này với các lần chiến tranh khác với phương  Bắc là Lý Thường Kiệt đã chủ động tấn công phủ đầu để phá tan âm mưu xâm lược của nhà Tống.
Trong các chiến dịch đánh châu Khiêm, châu Liêm và hạ thành Ung châu thì quân ta bắt được nhiều tù binh nhà Tống. Nhờ cách đối xử khôn khéo mà quân ta đã tận dụng được các tù binh này để tiết kiệm xương máu, đặc biệt trong việc vây thành Ung châu. Có thể nói với các hàng binh nhà Tống, họ cũng đóng góp không nhỏ trong phần thắng của đại quân nước ta khi hạ thành Ung châu.
Năm 1075, Đại Việt đã huy động 10 vạn quân sang đánh phá căn cứ châu Ung của Tống, bao gồm cả lực lượng chính quy của triều đình lẫn quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Đạo quân của triều đình ở phía Đông do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, gồm cả thủy lục quân xuất phát từ vùng Móng Cái ngày nay tiến vào đất Tống nhằm tới châu Khâm.
Ngày 30 tháng 12 năm 1075, châu Khâm bị chiếm, Trần Vĩnh Thái và các thủ hạ Văn Lương, Ngô Phúc, Tưởng Cẩn, Tống Đạo đều bị bắt và bị giết. Ngày 2 tháng 1 năm 1076, châu Liêm thất thủ. Chúa các trại Như Tích và Để Trạo đều tử trận. Sử Trung Quốc gồm Việt kiệu thư nhà Minh và Thần Tông thực lục nói rằng "sau khi Liêm châu Thất thủ thì phía Tống bị bắt tới 8.000 tù binh dùng để đưa đồ vật cướp được xuống thuyền sau cũng bị đem giết hết".

Nhiều khả năng đây là cách sử Trung Quốc xuyên tạc chính sách tù binh của Đại Việt nhằm để cho quân lính khi đối mặt với quân ta thì quyết đấu đến chết chứ không đầu hàng. Trên thực tế, khi Lý Thường Kiệt dẫn quân vào đất Tống thì đã viết Phạt Tống lộ bố văn nêu rõ chính nghĩa của quân ta. Người đời sau kể rằng “dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam; rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp”. Do vậy, không thể có chuyện quân Lý Thường Kiệt giết hại tù binh chiến tranh như sử phương Bắc chép được.
Thêm bằng chứng rõ hơn về chính sách tù binh của quân Đại Việt khi đó là trận diệt viện binh Quế châu ở Côn Lôn. Khi đó, nhà Lý vây rát thành Ung châu. Tô Giám cho người mang lạp thư - thư viết vào giấy rồi bọc trong nến - mà ngậm vào miệng phá vòng vây ra báo cho Tống Cầu ở Quế Châu. Tống Cầu giục Trương Thủ Tiết đi gấp. Trương Thủ Tiết vốn không muốn đánh vì sợ nay bị ép thì đành bất đắc dĩ kéo quân đi, đến núi Hỏa Giáp rồi ra giữ ải Côn Lôn giữa châu Tân và châu Ung, cách Ung thành 40 cây số.
Lý Thường Kiệt biết tin viện binh Tống đến, bèn cho quân đón đánh. Ngày 4 tháng Giêng âm lịch, tức ngày 11 tháng 2 năm 1076, quân Lý kéo thẳng đến ải Côn Lôn, quân Tống hốt hoảng bỏ chạy. Trương Thủ Tiết, Nguyên Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn là các chỉ huy của lực lượng viện binh nhà Tống đều bị giết tại trận. Nhiều quân sĩ Tống đầu hàng quân ta.
Lý Thường Kiệt tận dụng ngay nguồn tù binh này trong trận vây đánh Ung châu. Tống sử và Tục tư trị thông giám chép: "Thành Ung Châu bị vây từ mồng mười tháng chạp năm trước, đến bấy giờ gần một tháng. Nhưng thành cao và chắc, Giám lại giỏi điều khiển binh lính. Quân Lý không sao lọt. Muốn dòm vào trong thành, quân Lý dùng vân thê, là một thứ thang bắc chuyền nối nhau rất cao, rồi sai các tù binh trèo lên mà trông vào thành. Bốn bề dựng thang. Thang vừa dựng, Giám sai bắn hỏa tiễn, tức là một thứ pháo thăng thiên, đốt cháy thang".
Như vậy, Lý Thường Kiệt đã tận dụng tù binh để cho những việc nguy hiểm nhất. Trong cuộc chiến nhiều xương máu này, quân ta cũng mất đến vạn rưởi. Nếu không dùng tù binh công thành thì e rằng xương máu quân Đại Việt còn tốn hơn. Các tù binh nhà Tống còn bày mưu cho ta để hạ thành Ung châu nhanh hơn. Điều đó có thể cho thấy tù binh nhà Tống cũng chán ngán triều đình quan quân thối nát Trung Quốc khi ấy.
Theo Tục tư trị thông giám. có tù binh bắt được ở Côn Lôn, tên Triệu Tú, bày cho ta dùng hỏa công, nghĩa là bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Rồi khi ta vây thành đã 42 ngày, mà không sao phá được nên Lý Thường Kiệt sắp kéo quân lui. Lúc đó, lại có tù binh xui ta dùng phép thổ công: quân ta lấy đất bỏ vào bì, xếp chồng vào nhau thành bực thềm để lên thành.  Bao đất chất hàng vạn, dần dần cao như núi. Chốc lát đã cao đến vài trượng. Quân Lý nối tiếp nhau như kiến mà trèo lên, rồi lọt vào trong thành. Ấy là ngày Canh Thìn 23 tháng giêng. Như vậy, nếu không có tù binh nhà Tống hiến kế và chồng đất làm thềm lên thành thì cũng khó hạ được Ung châu.
Sau khi hạ được Ung châu thì ta bắt được nhiều tù binh nhà Tống. Không hề có chuyện thảm sát nào cả vì dựa theo Tống sử, nhà sử học Hoàng Xuân Hãn viết: "Dân và quân Tống bị ta bắt đem về, được đưa tới ở Nghệ An, Thanh Hóa xa biên thùy Tống, kẻo khi quân Tống vào, các tù nhân ấy có thể theo quân Tống. Hạng trên 20 tuổi, phải khắc trên trán ba chữ Đầu nam triều nghĩa là hàng Nam triều. Hạng dưới 20 tuổi và trên 15 tuổi phải sung làm lính, và theo tục bấy giờ, phải khắc trên trán ba chữ Thiên tử binh. Còn đàn bà, con gái thì phải khắc vào cánh tay hai chữ Quan khách nghĩa là khách của nhà nước".
Tục tư trị thông giám chép thêm: "Các tù ấy hình như cũng không bị giam cầm nghiêm ngặt. Trong bọn tù có Triệu Tú, là người thuộc đội quân Trương Thủ Tiết, bị Thường Kiệt bắt ở ải Côn Lôn, và bày cho ta dùng hỏa công ở Ung Châu. Tháng 10 năm Bính Thìn (1076), bọn Triệu Tú, tất cả ba mươi người, từ trại Nghệ An trốn, cưỡi thuyền vượt bể để về bắc; nhưng gặp gió, bị giạt vào Lê Động ở đảo Hải Nam ngày nay".
Anh Tú

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét