Thứ Hai, 19 tháng 2, 2018

Sinh năm Mậu Tuất, 80 tuổi vẫn xin đi đánh giặc?

Ông nổi tiếng với chất ngông, là vị quan thanh liêm, chính trực, có công lớn trong việc khai hoang dưới thời nhà Nguyễn.

Chân dung Nguyễn Công Trứ. Ảnh tư liệu
Chân dung Nguyễn Công Trứ. Ảnh tư liệu
Nguyễn Công Trứ tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn, sinh năm Mậu Tuất 1778, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha ông là Nguyễn Công Tấn, đỗ cử nhân năm 24 tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn (Nghệ An), sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình. Mẹ họ Nguyễn, người huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam.
Từ nhỏ, Nguyễn Công Trứ đã sống trong cảnh nghèo khổ nhưng luôn nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp. Năm 1819, khi đã 41 tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan.
Theo Kể chuyện danh nhân Việt Nam, Nguyễn Công Trứ làm quan ở các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Ông nổi tiếng là quan thanh liêm, chính trực, tài trí hơn người. Năm Mậu Ngọ (1858), dưới thời vua Tự Đức, khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, tuy đã 80 tuổi, ông vẫn tha thiết xin được tòng quân đi đánh giặc nhưng thấy ông tuổi già sức yếu, vua đã không chuẩn y.
Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã làm hai việc đáng chú ý hơn cả là khai hoang và giúp triều đình "an dân".
Về công cuộc khai hoang, theo sách Kể chuyện Danh nhân Việt Nam, Nguyễn Công Trứ có công lớn trong việc tổ chức khẩn hoang hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn, được nhân dân ở đây lập sinh từ thờ.
Về việc này, sách Đại Nam liệt truyện viết, sau khi xem phần đất hoang ở một dải Tiền Châu, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định, "chia cấp cho dân cùng, gồm được 14 làng, 27 ấp, 20 trại 10 giáo, đinh hơn 2.350 người, ruộng hơn 18.970 mẫu. Xin lập làm một huyện, gọi là huyện Tiền Hải…. Lại xin đo đạc chia khẩn đất ở ven biển ngoài núi Hồng Lĩnh, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, được 3 làng, 22 ấp, 24 trại, 4 giáp, đinh hơn 1.260 người, ruộng hơn 14.600 mẫu, lập làm một huyện, gọi tên là huyện Kim Sơn".
Ngoài việc khai khẩn đất đai, Nguyễn Công Trứ còn có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang... Ông chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân, đề nghị "đặt nhà học" cho con em nhân dân được học hành, "đặt xã thương" ở các làng để quản lý thóc gạo và rất nhiều công việc khác nhằm đảm bảo cuộc sống cho dân.
"Trứ làm quan thường bị bãi cách rồi được cất nhắc lên ngay", Đại Nam liệt truyện viết. Nguyễn Công Trứ được thăng thưởng quan tước nhiều vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới các chức thượng thư, tổng đốc, nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, thậm chí giáng liền ba bốn cấp, có lần bị phạt đi làm binh ở miền ven biên giới Quảng Ngãi.
Ví dụ năm thứ 11 thời vua Minh Mạng, Nguyễn Công Trứ "được thụ Hữu Tham tri bộ Công, tạm giữ ấn triện bộ Hình; bỗng lại giáng làm Hữu thị lang, sung làm công việc Nội các. Lại nhân việc bị tội giáng bổ kinh huyện, rồi thăng lang trung phủ Nội vụ”. Có thể thấy chỉ trong một năm, ông đã thăng giáng quan tước nhiều lần.
Năm 1847, ở tuổi 70, Nguyễn Công Trứ xin về hưu nhưng vua Thiệu Trị không cho. Đến năm 1848, dưới thời vua Tự Đức, ông mới được về hưu hẳn.
Nguyễn Công Trứ là nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Ông có tài, lại là người của hành động. Trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông đưa những suy ngẫm của mình vào thơ ca, thể hiện khí phách ngang tàng, tài hoa.
Thơ ca của Nguyễn Công Trứ xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi, cảnh nghèo và thế thái nhân tình hay triết lý hưởng lạc. Có những câu thơ mà chỉ cần nhắc tới là người đời nghĩ ngay tới ông như "Đã mang tiếng ở trong trời đất/Phải có danh gì với núi sông", hay "Trời đất cho ta một cái tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi".
Là người đào hoa, Nguyễn Công Trứ cũng có nhiều vần thơ, lời ca về thế thái nhân tình như "Thế thái nhân tình gớm chết thay/ Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy/ Hễ không điều lợi không thành dại/ Đã có đồng tiền dở cũng hay". Hay trong bài "Bỡn nhân tình", ông viết "Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói: răng không đến?/ Đến thì mi nói: đến làm chi".
"Bài ca ngất ngưởng" được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT, cụ thể là ở kỳ 1 lớp 11. Ngay tựa đề, bạn đọc đã nhận thấy sự ngất ngưởng, cái ngông của bậc dũng tướng. Phong thái ấy tiếp tục được triển khai ở khắp bài. 
"Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong,
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông"!
Nguyễn Công Trứ mất năm 1858. Để vinh danh ông, nhiều tỉnh, thành lấy tên ông đặt cho đường, phố, trường học, trong đó có Hà Nội và TP HCM.
Ở Hà Nội, đường Nguyễn Công Trứ nối từ đường Trần Thánh Tông đến ngã tư giao giữa phố Huế và đường Tô Hiến Thành, thuộc quận Hai Bà Trưng. Ở TP HCM, đường Nguyễn Công Trứ kéo dài từ đường Nguyễn Thái Học đến đường Hồ Tùng Mậu, thuộc quận 1. Cả hai thành phố này đều có trường trung học mang tên Nguyễn Công Trứ.
Ngoài ra, rất nhiểu tỉnh, thành như Ninh Bình, Thái Bình, nơi Nguyễn Công Trứ có công mở ra hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải cũng có đường phố, trường học mang tên ông.

Dương Tâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét