Thứ Hai, 19 tháng 2, 2018

Ông tổ nền y dược cổ truyền Việt Nam

Là người mở đầu nền y dược cổ truyền Việt Nam, ông nổi tiếng với câu nói "Nam dược trị Nam nhân".

Tượng ông tổ ngành dược Việt Nam ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương. Ảnh: Phụ nữ Việt Nam
Tượng ông tổ ngành dược Việt Nam ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương. Ảnh: Phụ nữ Việt Nam
Tuệ Tĩnh thiền sư tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu là Hồng Nghĩa, sinh năm 1330, người làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Dương).
Ảnh chụp một tư liệu có hình chân dung Tuệ Tĩnh thiền sư với tựa đề Y tổ Việt Nam. Ảnh: Internet
Ảnh chụp tư liệu có hình chân dung Tuệ Tĩnh thiền sư với tựa đề "Y tổ Việt Nam". 
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, Tuệ Tĩnh sống ở thời nhà Trần. Nổi tiếng với khẩu hiệu "Nam dược trị Nam nhân", tức thuốc của người Nam chữa bệnh cho người Nam, ông được hậu thế suy tôn là ông thánh của ngành thuốc Nam, ông tổ ngành dược, người mở đầu nền y dược cổ truyền Việt Nam.
Hai phương án còn lại, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc nhưng ông là thế hệ sau Tuệ Tĩnh và đã kế thừa xuất sắc sự nghiệp "Nam dược trị Nam nhân" của Tuệ Tĩnh. Trần Độc là thầy đưa Lê Hữu Trác đến với nghề thuốc.
Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa đi tu, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người.
Theo cuốn Tuệ Tĩnh và nền y dược cổ truyền Việt Nam, Tuệ Tĩnh không chữa bệnh cho dân bằng phù chú mê tín dị đoan vì như vậy là "đề cao đại giáo mà thiếu bảo đảm tính mạng cho nhân dân". Ông chủ trương chữa bệnh theo gốc, tập trung sưu tầm nghiên cứu y dược để phòng bệnh và chữa bệnh, giúp mọi người khỏe mạnh sống lâu, vượt lên trên mọi thần quyền phù phép.
Tuệ Tĩnh tu sửa, xây dựng 24 ngôi chùa. Kết hợp với việc giảng kinh và cửu tế của nhà chùa, ông đã tổ chức những cơ sở chữa bệnh làm phúc để cứu độ thế ở những chùa này. Ông trồng cây và chế thuốc để phát cho bệnh nhân, huấn luyện y học cho tăng đồ, sưu tầm những cây thuốc và phương thuốc trong dân gian để nghiên cứu rồi truyền bá cho nhân dân áp dụng.
Sách Tuệ Tĩnh và nền y dược cổ truyền Việt Nam viết, Tuệ Tĩnh đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ Nam dược thần hiệu gồm các phương pháp chữa bệnh bằng thuốc, ăn uống, châm cứu, xoa bóp…, chia làm 10 khoa. Bộ sách này còn bao gồm môn thuốc chữa cho gia súc.
Bộ Hồng nghĩa giác tư y thư (hai quyển), trước gọi là Thập tam phương gia giảm, được biên soạn bằng thơ Nôm, trong đó Bản thảo 500 vị thuốc Nam được viết bằng thơ Nôm Đường luật rất súc tích và bài Phú thuốc Nam 630 vị được diễn bằng quốc âm. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm nên những tác phẩm này không chỉ có vị trí trong lịch sử y học mà còn cả trong lịch sử văn học nữa.
Ngày nay, những tác phẩm này cùng các phương pháp chữa bệnh đơn giản mà Tuệ Tĩnh tổng lại vẫn được lưu truyền, giúp nhân dân biết dùng cây cỏ sẵn có để làm thuốc, chữa những bệnh thông thường một cách kịp thời.
Năm55 tuổi (1385), với trí tuệ uyên bác trong ngành y thuật, Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều đình nhà Minh.
Sang Trung Quốc, Tuệ Tĩnh rất được vua Minh quý trọng. Mới đầu, ông giữ chức Y tư cửu phẩm và nổi tiếng là thầy thuốc giỏi. Theo Tuệ Tĩnh và nền y dược cổ truyền Việt Nam, có lần ông đã chữa khỏi bệnh sản hậu cho hoàng hậu nên được vua Minh phong là Đại y thiền sư.
Tuệ Tĩnh mất ở Trung Quốc nhưng không rõ năm nào. Bia văn chỉ làng Nghĩa Phú (do Nguyễn Danh Nho soạn năm 1697) cùng các tư liệu khác ở địa phương đều ghi như vậy.
Theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Hải Dương, Cẩm Giàng, quê của đại danh y, còn một số di tích về Tuệ Tĩnh như đền Xưa, đền Bia, chùa Giám.
Để vinh danh ông, nhiều nơi đặt tượng thờ. Nhiều tỉnh thành có đường, phố được đặt theo tên của ông như Hà Nội, TP HCM, Hải Dương, Nghệ An...

Dương Tâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét