Ông từng làm Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám, giữ chức Ngự sử có nhiệm vụ can gián vua.
Văn Bia tiến sĩ đầu tiên khoa thi năm 1442 ở Văn miếu - Quốc Tử Giám có ghi danh Trạng nguyên này.
|
Nguyễn Trực (1417-1474) người làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Quốc Oai, nay thuộc Hà Nội. Ông sinh ra trong gia đình truyền thống khoa bảng, từ cụ, ông và bố đều là tiến sĩ và làm quan trong triều đình.
Từ bé, Nguyễn Trực nổi tiếng thông minh, chăm học. 18 tuổi ông đỗ đầu kỳ thi Hương và được lui tới trường Giám đọc sách. Năm 1442 đời vua Lê Thái Tông, triều đình nhà Lê Sơ mở khoa thi tiến sĩ đầu tiên, Chánh chủ khảo là quan Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi. Kỳ thi Đình năm ấy, vua ra bài văn yêu cầu sĩ tử luận về phép trị nước của các vương triều.
"Quan chánh chủ khảo Nguyễn Trãi chăm chú đọc từng quyển thi của các cống sĩ. Đọc đến một quyển, ông sửng sốt bắt gặp những kiến giải độc đáo, sâu sắc và có tính thiết thực với việc trị nước. Đó là bài văn của Nguyễn Trực, người tỏ ra thật khảng khái khi viết: Vua sáng tôi hiền thì nước sẽ thịnh, vua không sáng tôi không hiền thì nước sẽ suy vong. Quan chánh chủ khảo đã đề xuất để vua lấy chàng thí sinh 25 tuổi này đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ, tức Trạng nguyên...", sách Những người thầy trong sử Việt viết.
Trạng nguyên Nguyễn Trực được vua ban sắc là Quốc Tử Giám Thị thư, danh hiệu Á liệt khanh, đồng thời ban cho áo lam bào, mũ cánh chuồn, đai lưng bạc, ngựa trắng... Song không may cùng năm đó, bố của Nguyễn Trực qua đời, ông phải ở nhà chịu tang 3 năm, không được nhận sắc chỉ bổ dụng của triều đình.
Năm 1444 dưới triều Lê Nhân Tông, Nguyễn Trực về triều và được vua ban chức Triều nghi đại phu Hàn lâm viện học sĩ, sau sửa thành Thiếu trung khanh đại phu, kiêm Ngự sử đài ngự sử thị Đô úy.
Sách Những người thầy trong sử Việt ghi chép việc Nguyễn Trực được vua Lê Nhân Tông giao giữ chức Thiếu trung khanh đại phu, kiêm Ngự sử đài ngự sử thị Đô úy. "Tự thấy mình còn trẻ, nhận chức như vậy là quá lớn trong khi triều đình còn nhiều vị lão thần có công lao trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh nhưng vẫn ở cấp bậc thấp, Nguyễn Trực dâng biểu tạ ân nhưng khiêm tốn từ chối chức vị. Vua Lê phải ra sắc dụ tới 3 lần ông mới chịu nhận".
Trẻ tuổi nhưng làm việc đúng mực, cương trực, thẳng thắn, không thiên vị ai, Ngự sử Nguyễn Trực được quan lại triều đình nể phục, nhà vua quý trọng. Sách viết, khi mẹ Nguyễn Trực qua đời, ông từ quan về chịu tang, vua Lê Nhân Tông đã cho người vẽ hình quan Trạng để bên cạnh ngai vàng, để không khi nào cảm thấy vắng ông.
Năm 1457, khi chịu tang xong và trở về triều đình làm việc, Nguyễn Trực cùng Bảng nhãn Trịnh Thiết Trường được cử đi sứ Trung Hoa. Thời điểm đó, triều đình nhà Minh đang mở khoa thi tuyển chọn anh tài. Vua Minh nhân đây muốn thử các sứ giả Đại Việt, liền bảo hai sứ tham gia thi.
"Hai ông vâng lệnh, bàn nhau phải cố gắng hết sức. Mặc dù đường trường mệt mỏi và thời tiết khắc nghiệt, áo không đủ ấm, hai ông vẫn cắn răng làm bài. Kết quả kỳ thi ấy, Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, được vua Minh ban tặng cẩm bào...", sách Những người thầy trong sử Việt viết.
Do từng đạt danh hiệu Trạng nguyên ở Đại Việt, Nguyễn Trực được vua Minh phong là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Trở về nước sau lần đi sứ, Nguyễn Trực được vua phong chức Thượng Thư và ban cho 8 chữ vàng "Thành công danh Nam Bắc triều biên ngã" (hoàn thành công danh ở cả hai nước).
Cuốn Những người thầy trong sử Việt viết, năm 1459 vua Lê Nhân Tông bị người anh là Lê Nghi Dân giết chết. Nguyễn Trực khi ấy đã thảo văn tế với lời lẽ thống thiết, kể hết công đức của tiên đế và gián tiếp lên án sự vô đạo của Nghi Dân trước triều đình. Nghi Dân vì thế rất căm tức quan Thượng thư của triều cũ và mang ý định trả thù. Tuy nhiên, vị vua chỉ ở ngôi được một năm này chưa kịp giáng tội cho Nguyễn Trực thì đã bị các đại thần làm binh biến lật đổ.
Hoàng tử Lê Tư Thành sau đó được đưa lên ngôi vua, trở thành vua Lê Thánh Tông - hoàng đế thứ năm và là người trị vì lâu nhất triều Hậu lê.
Năm 1460, vua Lê Thánh Tông lên ngôi. Ngay năm đầu chấp chính, nhà vua trẻ đã tự tay viết chiếu bổ nhiệm Nguyễn Trực làm Tuyên phụng đại phu, Trung thư lệnh, đặc thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ, kiêm Tế tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám - trường đào tạo nhân tài của đất nước.
Nhận nhiệm vụ mới, Nguyễn Trực đã dày công biên soạn nhiều tài liệu giảng dạy cho các sĩ tử và được người đương thời tôn làm bậc nho sư.
Nhà vua cũng đặc biệt coi trọng ý kiến của quan Ngự sử dưới triều vua trước. "Trong quá trình soạn bộ Thiên nam dư hạ tập, mỗi lần xong một tập, nhà vua lại cho người đưa đến tận nhà Nguyễn Trực để ông đọc và phẩm bình. Sau mỗi buổi xướng họa của nhà vua với 27 danh sĩ trong hội Tao Đàn, vua đều cho người chép lại, gửi đến để ông duyệt qua, dù Nguyễn Trực không thuộc số Tao Đàn nhị thấp bát tú", sách Những người thầy trong sử Việt viết.
Nguyễn Trực còn được vua Lê Thánh Tông coi trọng đến mức, khi tuổi cao ông muốn được về thôn quê sống giản dị, vua không để ông về mà cử ngự y đến tận nhà chăm sóc. Vị Lưỡng quốc Trạng nguyên sau đó qua đời ở tuổi 57, được lập đền thờ tại quê nhà xã Tam Hưng (huyện Thanh Oai, Hà Nội). Năm 2011, đền thờ của ông được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Tên của ông được đặt cho một con phố thuộc quận Hà Đông.
"Khai quốc Trạng nguyên, văn chương vẻ vang trong nước, nổi tiếng một thời. Triều vua nào cũng được yêu chuộng, giữ việc văn hành, ở ngôi quán các, là người khiêm tốn, trước sau vẹn toàn", danh sĩ đời sau Thân Nhân Trung nhận xét về Nguyễn Trực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét