Có lẽ ngon nhất, độc đáo nhất vẫn là món canh cà đắng nấu với nội tạng bò và wêc êmô (phèo bò). Món ăn hấp dẫn bởi vị đắng đằm thắm của cà đắng kết hợp với vị ngọt của nội tạng, mùi thơm của phèo bò và vị cay xé lưỡi của ớt, sự đậm đà, thơm lừng của lá é, lá và củ nén. Tất cả tạo nên một khẩu vị rất lạ, rất riêng của núi rừng.
Các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung, người Êđê ở Dak
Lak nói riêng sống gần gũi với núi rừng, từ nguồn cung cấp thực phẩm dồi
dào này đã cho họ những món ăn ngon không thể thiếu trong cuộc sống và
không lẫn vào các món ăn nào của dân tộc khác. Cà đắng là một loại cà
dại mọc nhiều trên rừng, trên nương rẫy, sau này được người dân mang về
trồng trong vườn nhà, ra quả quanh năm. Quả cà đắng giống cà pháo nhưng
nhỏ hơn, có gai, màu xanh sọc đốm trắng, đặc biệt có vị đắng rất đặc
trưng.
Người phụ nữ Êđê bên mâm cơm gia đình.
Người phụ nữ Êđê bên mâm cơm gia đình.
Cà đắng được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau trong bữa cơm
của dân tộc Êđê như nấu với cá tươi, cá khô, tép khô, thịt rừng hoặc cà
đắng um với ếch... Ba loại gia vị không thể thiếu để tạo nên mùi vị độc
đáo của các món từ cà đắng là ớt, lá é (lá quế xanh), lá và củ nén (gần
giống lá hẹ).
Có lẽ ngon nhất, độc đáo nhất vẫn là món canh cà đắng nấu với nội
tạng bò và wêc êmô (phèo bò). Món ăn hấp dẫn bởi vị đắng đằm thắm của cà
đắng kết hợp với vị ngọt của nội tạng, mùi thơm của phèo bò và vị cay
xé lưỡi của ớt, sự đậm đà, thơm lừng của lá é, lá và củ nén. Tất cả tạo
nên một khẩu vị rất lạ, rất riêng của núi rừng.
Người Êđê chế biến món canh cà đắng không cầu kỳ mà dân dã, đơn
giản đến bất ngờ. Cà đắng khứa đôi hoặc bốn, ngâm nước muối pha loãng,
đợi canh sôi mới cho vào. Sau khi cà chín, cho thịt và phèo bò vào cho
đến khi thịt nhừ. Cũng có thể cho các loại rau rừng vào trong canh tạo
ra hương vị rất lạ mà vẫn thơm ngon, hấp dẫn người thưởng thức. Sau khi
đã nhấc nồi canh ra, giầm nát cà, rồi bỏ thêm lá é, lá và củ nén, thế là
có một nồi canh cà đắng nấu với thịt, phèo bò thơm lừng.
Ngoài nấu chín, người Êđê còn ăn cà đắng sống, bằng cách giã nát cà
rồi cho thêm gia vị: muối, ớt, bột ngọt, lá é, lá và củ nén. Món này
rất cay, đậm đà, ăn được rất nhiều cơm. Người Êđê không có điều kiện đi
chợ thường xuyên, nên các món ăn chế biến từ cà đắng rất gần gũi và
thiết thực.
Bên cạnh cà đắng, rau djam tang cũng là một trong những “đặc sản
của rừng” được người Êđê hay sử dụng để nấu nướng trong bữa ăn hằng
ngày. Rau djam tang thường mọc ven sông Krông Ana, Krông Knô và sông
Sêrêpôk. Do môi trường sống thay đổi, cộng với sự diễn biến thất thường
của thời tiết, nên giờ đây djam tang dần dần khan hiếm.
Trong sáu tháng mùa khô ở Tây Nguyên, rau djam tang già cỗi, để đến
mùa mưa rau trỗi dậy, vươn những mầm chồi nõn nà. Những năm trước đây,
rau djam tang mọc ven sông rất nhiều. Có lẽ vì sống ven bờ sông, nên rau
djam tang có thân mảnh, mềm mại hơn bất kỳ loại rau rừng nào khác.
Có lẽ, djam tang là một loại rau “nữ hoàng’’, vì sự dễ gãy cũng như
sự dễ bị bầm úa của ngọn rau. Djam tang có thể nấu với nhiều món ăn
khác nhau như nấu với cá suối, cá cơm, măng le, nấm và thịt rừng. Một
trong những món ăn ngon nhất khi nấu rau djam tang, đó là nấu với cá
suối.
Món canh này có vị ngọt của djam tang và vị bùi của cá suối, kết
hợp hài hòa tạo nên vị ngọt bùi đọng lại khó quên. Ngoài ra, rau djam
tang còn được dùng để muối chua chấm với các loại thịt, cá nướng. Với sự
thơm ngon, hấp dẫn của món djam tang, không ai có thể cưỡng lại mùi vị
độc đáo và rất riêng này…
Theo Y Minh Tuệ (Đắk Lắk Online)
Cà Đắng - Prền Bơtang trong bữa ăn người Kơ Ho
Người Tây Nguyên có trồng một giống cà gọi là cà đắng - prền bơtang vì có vị rất đắng, trên đất rẫy và cả trong vườn nhà. Loài cà này để lại nhiều tên gọi như ruộng Cà đắng - Sơre Prền ở Di Linh, Đưng Prền ở gần thác Prenn bây giờ.
Trái cà đắng. Ảnh: Internet
Ngày xưa, không biết là từ lúc quân Nhật xâm chiếm nước ta hay trước nữa, khi người Nhật đặt chân đến vùng đất Tây Nguyên, đã để lại cho vùng đất này một loài Cà mới, mà người Kơ Ho gọi cây cà này là prền Nhật-cà Nhật. Tuy bà con không trồng nhưng đây là một loại cây cà mọc rất khỏe, bụi to, ở khắp nơi trong rừng trong rẫy, ở cả những vệ đường, cạnh khe suối.
Hai loài cây cà Nhật và cà Đắng của “người đồng bào” nhìn cũng gần
giống nhau, đều là cây có gai nhưng cà Nhật quả to hơn cà Đắng, cà Nhật
có hoa màu trắng quả màu xanh nhạt, còn cà Đắng thì lại có hoa màu tím
quả màu xanh đậm hơn. Cà Đắng và cà Nhật đều có mùi thơm, cà Nhật có mùi
thơm ngọt còn cà Đắng có mùi thơm của vị đắng.
Cà Nhật không có vị đắng mà rất ngọt, còn loại cà Đắng của “đồng
bào” thì rất đắng, nhưng nhiều người vẫn thích vị đắng của cà này. Nếu
giã cà Đắng với gạo rồi nấu cháo thì cháo cà vừa ngọt vừa có vị hơi
đắng. Với cà Nhật bà con chỉ nấu với cá đã phơi khô, thịt khô hoặc nấu
chỉ mỗi món cà không, chứ không dùng nấu cháo như cà Đắng. Người già rất
thích ăn loại này, thậm chí có người già chỉ nấu cà không, mà không cần
cho gia vị gì, chắc để được ăn hương vị thô mộc như vậy.
Cà Đắng là một loại cà ít dân tộc nào biết ăn, nhưng đối với người
Kơ Ho thì là món ăn rất quen thuộc và rất tốt cho người đau ốm. Có người
nói vị đắng này giúp tiêu mỡ độc, phòng bệnh tiểu đường,...
Theo DANZBI KA HẸ (Lâm Đồng Online)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét