Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018

Bích Câu đạo quán


Bích Câu đạo quán lập từ cuối thế kỷ 15, nay được hiểu như cả khu đền thờ tiên ông Tú Uyên và chùa An Quốc. Xếp hạng: Di tích lịch sử văn hoá quốc gia (năm 1990). Địa chỉ: số 14 phố Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội. Toạ độ: 21°01’43"N 105°49’57"E, cách Hồ Gươm hơn 2km về hướng tây. Điểm dừng xe bus gần nhất: phố Cát Linh (bus 23, 25, 38, 49) hoặc Tôn Đức Thắng (02, 25, 41, 49).

Bản đồ trực tuyến

Giới thiệu

JPEG - 166.2 kb
Đền Tú Uyên. Ảnh ©2015 NCCong
Bích Câu đạo quán được thành lập từ đời vua Lê Thánh Tông để các đạo sĩ đến luyện phép trường sinh và thờ cúng thần tiên. Với cảnh đẹp và truyền thuyết lãng mạn về hàn sĩ Tú Uyên gặp tiên Giáng Kiều, nơi đây sớm trở nên danh thắng bậc nhất ở kinh đô, tuy không phải là một trong “Thăng Long tứ quán”[1].
JPEG - 152.6 kb
Chùa An Quốc. Ảnh ©2015 NCCong
Đến thời Lê Trung Hưng, Đạo giáo suy thoái, phần lớn các đạo quán dần dần trở thành đền, chùa. Trong khuôn viên Bích Câu đạo quán cũng có thêm chùa và điện thờ Mẫu.
Quần thể này từ thời Nguyễn đến nay được hiểu như đền thờ tiên ông Tú Uyên, chùa An Quốc và điện Mẫu. Gần đây cả khu đã được đại trùng tu theo bức tranh cũ với các hạng mục xây dựng cạnh nhau trên diện tích 2.971m2, ở gần Quốc Tử Giám Hà Nội. Tòa nhà bên hữu hiện đang là một nơi thường có tổ chức biểu diễn ca trù và hát văn. Xem thêm: Đền Ca Công thờ Tổ nghề Ca trù.

Kiến trúc

Các công trình lớn của khu di tích bao gồm: đền Tú Uyên, chùa An Quốc và điện Mẫu. Sau cổng tam quan tuy nhỏ nhưng độc đáo là một khoảng sân khá rộng nối liền đền Tú Uyên với chùa An Quốc (diện tích 202m2) bên tả và toà nhà đối xứng bên hữu.
Theo kiểu cách Đạo giáo, ở giữa sân đặt một hòn non bộ để chắn gió (bình phong giả sơn), trước sân lại có hai giếng hình tròn và vuông tượng trưng cho trời đất (thiên địa phong thuỷ). Cả ba toà nhà chính này đều nhìn về hướng nam và xây theo lối kiến trúc truyền thống hình chuôi vồ. Phía sau còn có hậu đường, nhà khách, vườn tháp và nhà Ni.
Sân trước Bích Câu đạo quán. Panorama ©2014 NCCong

Huyền thoại

Theo truyện “Bích Câu kỳ ngộ”[2] trong đời vua Lê Thánh Tông (1442—1479) có chàng trai nhà nghèo tên là Trần Tú Uyên, chỉ dựng được một căn lều bên ngòi nước ở phường Bích Câu tạm làm nơi ăn học. Một hôm đi xem hội ở chùa Ngọc Hồ (tức chùa Bà Ngô, nay thuộc phường Quốc Tử Giám) chàng nhặt được chiếc lá đỏ dưới cây mẫu đơn, trên lá có ghi bài thơ:
JPEG - 100.3 kb
Tam quan Bích Câu đạo quán. Ảnh ©2014 NCCong
Liễu biếc đào hồng tiết tháng ba
Xe loan hạ cánh cửa thiên gia
Cầu Lam chật ních người như kiến
Ai biết thần tiên trước mặt ta?
Đang say sưa nghiền ngẫm bài thơ thì nhác thấy một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần lướt qua cổng chùa, chàng vội vàng rảo bước theo, nhưng đến đầu đình Quảng Văn thì cô gái biến mất. Tú Uyên ngơ ngẩn ra về, mất ăn, mất ngủ. Mấy ngày sau đến đền Bạch Mã khấn vái, cầu mộng và được thần bảo cho biết cứ đi ra chợ Cầu Đông (đầu phố Hàng Đường ngày nay) sẽ gặp được người trong mộng.
Đợi đến quá nửa ngày chàng chỉ thấy một cụ già bán tranh tố nữ. Và cô gái trong tranh giống hệt người gặp ở chùa Ngọc Hồ. Chàng liền mua về treo ngay cạnh bàn học, ngày đêm ngắm nghía. Ăn cơm, uống nước chàng đều sắp ra hai đôi bát đũa và mời mọc, trò chuyện với người trong tranh y như người thực.
JPEG - 200.7 kb
Chính điện chùa An Quốc. Ảnh ©2015 NCCong
Một hôm, chàng về muộn đã thấy trên bàn có mâm cơm bày biện sẵn cho mình. Cho là sự lạ nên ngày hôm sau chàng bí mật rình xem mới biết cô gái xinh đẹp dịu hiền trong tranh bước ra. Tú Uyên từ chỗ nấp xuất hiện, cô gái không biến đi được nữa. Nàng thú nhận mình là tiên nữ, tên Giáng Kiều, có tiền duyên với chàng nên xuống trần cùng nhau kết nghĩa. Từ đó hai vợ chồng sống rất hạnh phúc.
Song được ít lâu Tú Uyên sinh ra phóng đãng, bỏ cả học hành. Giáng Kiều khuyên can không được, lại bị gắt gỏng nên tức giận bỏ về trời. chàng sống một mình hiu quạnh, buồn bã toan tự tử thì Giáng Kiều lại xuất hiện khuyên can chồng chú tâm học nghề thuốc cứu người. Tú Uyên nghe lời vợ học hành thành đạt, cứu chữa cho người dân quanh vùng.
Một lần, đất nước bị ngoại xâm, nhờ có tài trị khỏi bệnh cho tướng giặc Trà Toàn nên hắn rút quân, đất nước bình yên. Nhờ công lao ấy vua Lê Thánh Tông phong tặng “An quốc chân nhân” cho Tú Uyên. Về sau vợ chồng Tú Uyên—Giáng Kiều sinh hạ được một người con trai là Chân Nhi. Vào một ngày trời đẹp, hai vợ chồng từ bỏ cõi trần, cùng nhau cưỡi hạc bay về tiên giới để lại Chân Nhi tiếp nối công đức ở trần gian.
Trong chùa An Quốc. Panorama ©2015 NCCong
JPEG - 189.2 kb
Bên trong đền Tú Uyên. Ảnh ©2015 NCCong

Lịch sử

Tưởng nhớ mối duyên tiên và công lao của Tú Uyên, dân làng An Trạch, huyện Vĩnh Thuận tại phía tây nam ngoại thành (nay thuộc phường Quốc Tử Giám) đã xây dựng Bích Câu đạo quán để thờ tự. Hàng năm, dân ở đây mở hội vào mồng 4 tháng 2 âm lịch kỷ niệm ngày Tú Uyên đắc đạo, mồng 3/6 cúng tế ngày tiên ông về trời và 12/8 mừng lễ sinh nhật của ngài.
Sau nhiều năm chiến tranh loạn lạc, Bích Câu đạo quán bị cũ nát. Đời vua Gia Long, tổng trấn Bắc thành Lê Chất bỏ tiền riêng tu sửa lại. Trong thời kỳ cuối 1946 đầu 1947, quán từng là trụ sở của Ủy ban Kháng chiến Hà Nội. Khi đó, quán bị quân Pháp san bằng nhưng rồi lại được nhân dân địa phương khôi phục vào năm 1953.
Năm 1990 Bích Câu Đạo quán được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Năm 2011—2012 quán đã được UBND TP Hà Nội cho trùng tu với kinh phí khoảng 43 tỷ đồng, hơn một nửa trong đó dành cho giải toả các hộ lấn chiếm. Tòa nhà bên trái được xây lại hiện nay là nơi thường tổ chức biểu diễn ca trù. Xem thêm: Đền Ca Công thờ Tổ nghề Ca trù.
JPEG - 163.6 kb
Nhà Tổ, tháp và đền Mẫu sau chùa An Quốc. Ảnh ©2015 NCCong
Ngày nay đến Bích Câu đạo quán, du khách vẫn còn thấy bức vẽ chân dung Giáng Kiều do Viện Viễn Đông Bác Cổ tặng và một bức tranh khác mô tả quần thể di tích này vào thế kỷ 15, trông rất đồ sộ.

Di tích lân cận

Chú thích

[1] “Thăng Long tứ quán” bao gồm:
—Chân Vũ quán, tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh;
—Huyền Thiên cổ quán, nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai;
—Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành;
—Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.
Những đạo quán trên đều ra đời trong giai đoạn phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam từ cuối thời Trần cho đến hết thời Mạc.
[2] Phạm Đình Hổ 范 廷 琥 (1768—1839) ghi trong “Vũ trung tùy bút” rằng truyện “Bích Câu kỳ ngộ” 碧 溝 奇 遇 do Đặng Trần Côn 鄧 陳 琨 (1705-1745) viết bằng chữ Hán, nhưng nhiều người vẫn coi nữ sĩ Đoàn Thị Điểm 段 氏 點 (1705—1748) là tác giả. Hai thế kỷ sau, ông tú Vũ Quốc Trân đã chuyển thể truyện này sang 678 câu thơ lục bát và cho in bằng chữ Nôm.

Bài và ảnh: Đông Tỉnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét