Lược sử
Làng Trung Tự vốn thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, nằm chính giữa phía nam kinh đô Thăng Long thời Lê. Đình làng tuy nhỏ nhưng ở địa thế tốt: cổng nghi môn giáp đê La Thành, mé phải có chùa Phúc Long và đàn Xã Tắc, mé trái là đền Cao Sơn Kim Liên, lưng dựa hồ Khang rộng lớn (trước khi bị đường QL1A chia ra thành hồ Ba Mẫu và Bảy Mẫu). Từ nghi môn vào đình xưa kia là con đường làng đi giữa các ao vườn. Trong đình có đôi câu đối “Khang thuỷ La thành vượng khí bán phần Long Đỗ thắng / Âu phong Á vũ sùng từ trường đối Tản Viên phong” (Hồ Khang, Thành La, khí vượng bằng nửa phần cảnh đẹp Long Đỗ / Gió Âu, mưa Á, đền thiêng sánh lâu dài đỉnh núi Tản Viên), tinh thần mới mẻ, phải chăng là của danh sĩ Đông Kinh Nghĩa thục Nguyễn Hữu Cầu?
Tương truyền thần Cao Sơn là Lạc tướng Vũ Lâm, con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hoá, nay là Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Theo văn bia trong đình Kim Liên bên cạnh do Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám Tế tửu Lê Tung soạn năm 1510, thần đã giúp Lê Tương Dực dẹp loạn, nên năm 1509 vua cho xây dựng một đền thờ to đẹp hơn tại phường Kim Hoa ở kinh thành, trấn phía nam Thăng Long.
Đình Trung Tự khởi đầu từ một ngôi đền nhỏ thờ thần Cao Sơn và Huệ Minh công chúa, sau mở rộng thành đình, có sắc phong phúc thần là Đại vương Nguyễn Hy Quang (1634—1692). Đình đã được tu sửa nhiều lần; lần mới nhất cách đây vài năm. Khuôn viên đình bị thu hẹp sau những biến cố lịch sử, cổng đình nay mở về hướng tây giáp ngõ 198 Xã Đàn, phải dựng nhà bia và xây Văn Chỉ ngay trong sân.
Lưu ý
Trải qua bao cuộc dâu bể, giáp đình Trung Tự thì nhà Văn Chỉ cũ đã bị lấy mất, giếng Ngọc cũng chỉ mới được xây lại gần đây. Nhưng trong đình vẫn giữ được nhiều kỷ vật, kể cả 2 tấm bia quý và 10 câu đối cổ. Sau cổng đình có hai nhà bia nhỏ. Độc đáo nhất là bia hộp “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” (Mốc địa giới thôn Trung Tự, phường Đông Tác), trước đặt ở Văn Chỉ. Lời mở đầu văn bia do Tư nghiệp Quốc tử giám Hoàng giáp Nguyễn Trù (阮 儔 1668—1738) soạn năm 1733 (ngày 2 tháng 6 Quý Sửu, niên hiệu Long Đức thứ 2), đúng 60 năm sau khi dân làng Trung Tự kiện để đòi lại đất đai bị quân doanh chiếm.[1]
Nơi xưa là hồ Khang Thủy và ô Đồng Lầm. Panorama ©2015 NCCong
Bia thứ hai tên là “Di ái bi”, đặt ở bên trái bức bình phong với cuốn thư. Văn bia do Giải nguyên Nguyễn Thành Thể (đích tôn của Giải nguyên Nguyễn Hy Quang) soạn năm Tân Dậu 1741, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2, đời vua Lê Hiển Tông. Đôi câu đối cạnh bia do cụ nghè Nguyễn văn Lý(阮 文理 1795—1868) viết:
“Dự Trinh tảo khế tiên thiên cát
Đỉnh Lợi tùng khai hậu thế xương”
Đông Tỉnh lạm dịch là:
Duyên hợp Dự Trinh, phúc lành hưởng từ kiếp trước
Mở theo Đỉnh Lợi, hiền tài nối mãi đời sau[2]
“Dự Trinh tảo khế tiên thiên cát
Đỉnh Lợi tùng khai hậu thế xương”
Đông Tỉnh lạm dịch là:
Duyên hợp Dự Trinh, phúc lành hưởng từ kiếp trước
Mở theo Đỉnh Lợi, hiền tài nối mãi đời sau[2]
Sau bình phong là một cây thị khoảng 400 tuổi mà vẫn đứng sừng sững, cành lá xum xuê che mát nhà bia. Trong hốc cây đã từng cất giấu tài liệu cách mạng bí mật. Hàng năm vào ngày 20 tháng 8 âm lịch, dân hiếu học trong làng làm lễ tế các bậc tiên hiền dưới bóng cổ thụ này. Theo lời cụ thủ từ là cựu nhà giáo Nguyễn Trà thì thị thuộc loại “thất tuyệt” tức có 7 điều quý: cây thọ, tán rộng, chịu hạn, không có tổ chim, gỗ làm ván in, quả thơm để cúng, vỏ làm thuốc chữa bệnh.
Kiến trúc
Sân đình Trung Tự nay bị thu hẹp nhưng vẫn đủ chỗ làm bàn cờ người, thường chơi trong những ngày hội làng vào dịp rằm tháng ba âm lịch hàng năm. Trước sân có một miếu nhỏ, cửa đề chữ Hán “Ngưỡng chỉ” (止仰), trong thờ hai pho tượng Đức Ông Văn Võ đối diện nhau. Hai bên miếu là khu phụ và nhà bia nhỏ thứ ba. Quanh sân có các bức tường gắn nhiều bia ghi công đức.
Đại đình 5 gian kết cấu theo hình chuôi vồ với hậu cung 3 gian và 1 gian nối mái. Ở chính điện có một bộ long ngai kiểu thời nhà Mạc với hai đầu rồng quay vào trong là thứ rất hiếm. Lại có những đồ quý khác như bức chạm quần long tụ hội và chiếc mõ gỗ to hình con cá, dài 1,93m với kích thước khoang bụng 1,1m.
Sân đình Trung Tự. Panorama NCCong©2014
Gian thứ hai chính điện có bộ cửa giữa rộng 4 cánh, phía trên là bức hoành phi cổ nữa, đề chữ Hán “Chiêu điện thiên cổ”. Cửa ngách bên trái treo hoành phi “Trang nghiêm”, cửa bên phải treo hoành phi “Tĩnh túc”. Ở giữa đặt ngai lớn thờ Đức Ông, 2 tay ngai chạm rồng tinh xảo, sau lưng có con rồng bay ra, hai bên gồm 6 trụ đứng, đế hình chân quỳ, 4 góc chạm hình đầu cá chép… Trên ngai xếp bài vị sơn son thếp vàng, đỉnh chạm lưỡng long triều nguyệt, xung quanh chạm trổ mây cuộn có hai đầu rồng vươn lên. Bên trái gian thứ tư còn xây bệ thờ, trên để long án bằng gỗ sơn son thếp vàng và có 6 trụ tay ngai hình rồng.
Tiền đường rộng 5 gian. Gian giữa (trung đình) treo bức hoành phi chạm rồng chầu mặt nguyệt và 4 câu đối gắn trên 4 cột sơn son thếp vàng, tiếp đến là bức hoành phi cổ thứ hai và án thư gỗ từ thế kỷ 17 chạm hình hổ phù tứ linh. Các gian hai bên tiền đường hiện nay đặt chuông, trống, đôi ngựa gỗ, các kiệu, tay ngai và đòn khiêng bát cống. Đình Trung Tự đã được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào ngày 23-6-1992.
Di tích lân cận
- Chùa làng Kim Liên: số 170 phố Kim Hoa.
- Chùa Phụng Thánh: số 43 phố Trung Phụng.
- Chùa Trung Tự (Phúc Long Tự): số 46 phố Đê La Thành.
- Đình làng Kim Liên: số 148 phố Kim Hoa.
Bản đồ trực tuyến
Chú thích
[1] Hai mặt bia chép các văn bản liên quan vụ kiện, dưới 700 chữ, trên 600 chữ, úp vào nhau thành một hộp triện vuông, mỗi cạnh rộng 76cm, thân cao 50cm, nắp dày 18cm, được coi như cuốn “sổ đỏ” bền chắc độc nhất vô nhị ở Thăng Long.
[2] Dự Trinh là sự hòa thuận vui vẻ mà thành đạt lâu dài, cái đích của mọi việc; Đỉnh Lợi là nung nấu, nuôi dưỡng, tôi luyện vững bền mà được lợi thích đáng, hợp lòng người. Nguyễn Văn Lý khi ở Huế từng là bạn thơ của Cao Bá Quát và Tùng Thiện Vương, vua Tự Đức thường vời vào cung để đoán thời vận, giảng Dịch lý. Quẻ Dự trên là Lôi, dưới là Khôn; quái tượng như sấm đầu xuân, kích thích muôn vật sinh ra cuộc sống mới, đẹp. Quái đức “Thuận dĩ Động”, chủ về sự hòa lạc, thuận nhân tâm. Đỉnh vốn dùng để nấu và đựng đồ ăn cúng tế, tượng trưng cho sự bền vững (“vạc ba chân”) và dưỡng hiền (rèn luyện nhân tài, gây dựng cái mới). Lại theo gia phả họ Nguyễn Đông Tác, thuỷ tổ vốn làm “nghề nung đúc”. Chữ nghĩa thật thâm thuý ! [Đông Tỉnh]
Đông Tỉnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét