Thời kỳ “nước Hoàn Vương” có thể coi là thời kỳ quá độ, chuyển mình từ thời kỳ Lâm Ấp sang thời kỳ Chiêm Thành. Nhưng nước Lâm Ấp bên cạnh việc tiếp tục văn hóa Ấn Độ cũng chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Hán và gần gũi với cư dân người Việt cổ hơn. Còn nước Chiêm Thành về sau thì là một quốc gia Ấn hóa thực thụ.
Cuộc chiến đẫm máu với quân đội nhà Tùy năm 605 đã khiến nền tảng của nước Lâm Ấp bị lung lay tột độ. Nước Lâm Ấp bị mất đi thành Phật Thệ (Kandapurpura) cùng với phần lãnh thổ quan trọng ở phía bắc. Lưu Phương chẳng những chiếm đóng thành Phật Thệ mà còn xua quân cướp phá kinh thành Sư Tử (Simhapura) khiến vua Lâm Ấp bấy giờ là Phạm Chí ( hay Phạm Phạn Chi tức Sambhuvarman) phải bỏ thành chạy, quân dân người nước Lâm Ấp thương vong không thể kể xiết. 10 năm sau, nhà Tùy suy yếu, Phạm Chí đem quân chiếm lại được thành Sư Tử. Một vài năm sau nữa, người dân Lâm Ấp nổi dậy chiếm lại thêm một số phần đất đã mất khi nhà Tùy sụp đổ. Tuy nhiên, triều đình Lâm Ấp đã không còn giữ được sự thống nhất của đất nước nữa.
Các tiểu vương ở các xứ vừa bất mãn triều đình, vừa nhân cơ hội triều đình suy yếu mà nổi lên tự giữ lấy đất đai. Lâm Ấp từ đó bước vào thời kỳ phân liệt. Mãi sang thế kỷ thứ VIII, xứ Panduranga trở nên hùng mạnh và khuất phục được các xứ còn lại. Tiểu vương xứ Panduranga là Bhadravarman II sau khi thống nhất đất nước đã lên ngôi, xưng là Prithi Indravarman vào năm 758. Quốc hiệu mà nhà vua đặt cho đất nước mình là Champa (hoặc Campa), và nhiều khi cũng tự xưng quốc hiệu là Panduranga vốn là tên lãnh địa của mình. Sử sách Trung Hoa từ đây trở đi gọi Lâm Ấp là “nước Hoàn Vương”. Kinh đô của nước này sau đó được dời từ Simhapura sang kinh thành mới là thành Hùng Tráng (Virapura, thuộc Ninh Thuận ngày nay).
Thời kỳ nước Hoàn Vương, văn hóa Ấn vốn được người Panduranga tiếp thu mạnh mẽ từ nước Phù Nam xưa kia, nay được lan truyền mạnh mẽ khắp cả nước khiến cho người dân tại đây vốn đã trải qua những giai đoạn Ấn hóa, nay lại càng Ấn hóa nhiều hơn. Điều này dẫn đến việc người Hoàn Vương dứt bỏ hoàn toàn lớp áo của văn hóa Hán, chính thức bước vào hàng ngũ những nước theo văn minh Ấn Độ. Cùng với đó, những bản sắc từ thời kỳ cổ đại vẫn tồn tại và duy trì.
Các vua Hoàn Vương không còn giữ thái độ hiếu chiến với phương bắc như trong thời kỳ Lâm Ấp mà chủ động kết bang giao với đế quốc Đường. Đây là một trong những nền tảng hưng thịnh cho nước Hoàn Vương. Thế nhưng thế kỷ VIII là thời mà hai thế lực hiếu chiến khác vươn lên mạnh mẽ. Người Khmer sau khi diệt nước Phù Nam vẫn tiếp tục đà bành trướng, luôn chực chờ đánh cướp Hoàn Vương từ hướng tây và hướng nam. Ngoài phía biển, người Java (thuộc Indonesia ngày nay) dưới triều các vị vua Cailendra luôn coi mình là vua của thiên hạ và tìm cách đứng chân trên đất liền. Nhà Cailendra luôn nhòm ngó những vùng đất duyên hải giàu có của Hoàn Vương. Đó quả thực là những mối đe dọa thường trực và nghiêm trọng.
Năm 774, quân đổ bộ cướp phá hai xứ Kauthara và Panduranga. Vua Prithi Indravarman chết trong chiến trận khiến quân Hoàn Vương tan vỡ, các quý tộc Hoàn Vương phải chạy về vùng núi phía tây. Quân Java thả sức cướp phá các đền đài. Đền thờ Po Nagar, niềm kiêu hãnh của Hoàn Vương bị cướp đi rất nhiều tượng vàng, châu báu. Ngay sau đó, vị vua mới lên thay thế là Satyavarman dựa vào sự hỗ trợ của các tộc người sơn cước đã tập họp lại lực lượng, tiến hành phản công. Quân Hoàn Vương cuối cùng đánh đuổi được quân Java, khôi phục lại các vùng đất đã bị chiếm và dùng thủy quân rượt đuổi quân giặc chạy dài trên biển.
Năm 787 vương quốc Java lại cất quân xâm lược nước Hoàn Vương. Quân Java tràn vào cướp phá kinh đô Virapura, bắt cóc phụ nữ và giết hại rất nhiều. Vua Indravarman I phải bỏ kinh thành mà chạy về hướng tây. Một cuộc chiến trường kỳ đã diễn ra. Mãi đến 799 quân Chăm mới có thể đánh đuổi giặc biển ra khỏi bờ cõi.
Sang thế kỷ thứ IX, nước Hoàn Vương trở nên hùng mạnh và không còn bị uy hiếp bởi giặc biển như trước, trái lại các vua Hoàn Vương là Harivarman I và Vikrantavarman III còn nhân đà cường thịnh cất quân chinh phạt khắp nơi để trả đũa và cướp bóc các nước lân bang. Quân đội Hoàn Vương còn nhân cơ hội đế chế Đường suy yếu cất quân chiếm lại phần đất phía bắc, đưa biên giới dân đến phía nam dãy Hoành Sơn. Sau đó, quân Hoàn Vương còn tràn sang cướp châu Hoan và châu Ái. Đến năm 809, thái thú nhà Đường là Trương Chu đem quân đánh bại được quân Hoàn Vương
Lúc này đế quốc Khmer cũng bước vào giai đoạn cực thịnh, trở thành mối đe dọa chính cho Hoàn Vương. Nhiều trận chiến giữa hai bên đã nổ ra để tranh giành vùng cao nguyên Đồng Nai thượng. Cuộc chiến dai dẳng này đã khiến đất nước quốc lực cả hai bên hao tổn. Nhất là những xứ phía nam nước Hoàn Vương bị tàn phá nặng nề. Điều này tạo cơ hội cho dòng vương tôn phía bắc vươn lên nắm giữ vị thế cao trong triều.
Năm 854, vua Vikrantavarman III mất mà không có con nối. Lúc bấy giờ, vương tôn Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin xứ Indrapura đã lãnh đạo quân dân kiên cường chống giặc ngoại xâm phía nam, lập nên nhiều chiến công hiển hách. Do đó, các vương tôn và triều thần đã tôn Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin lên ngôi vua vào năm 859. Vị vua mới lấy hiệu là Indravarman II, mở ra một triều đại mới. Quốc hiệu Champa vốn đã có từ trước, dưới thời vua Indravarman II được người Trung Hoa biết đến sau những chuyến đi sứ. Kể từ đó, trong sử sách Trung Hoa và sử Việt về sau gọi đất nước của vua Indravarman II là nước Chiêm Thành.
Thời kỳ “nước Hoàn Vương” có thể coi là thời kỳ quá độ, chuyển mình từ thời kỳ Lâm Ấp sang thời kỳ Chiêm Thành. Nhưng nước Lâm Ấp bên cạnh việc tiếp tục văn hóa Ấn Độ cũng chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Hán và gần gũi với cư dân người Việt cổ hơn. Còn nước Chiêm Thành về sau thì là một quốc gia Ấn hóa thực thụ. Nước Chiêm Thành ban đầu theo Phật giáo Đại thừa. Kinh đô Đồng Dương (Indrapura) được xây dựng đồng thời cũng là một trung tâm tôn giáo mới. Các vị Đạt ma và tu viện được coi trọng hơn bao giờ hết, được vua miễn không phải đóng thuế.
Kể từ thời vua Indravarman II, nước Chiêm Thành đã hùng mạnh và đủ khả năng chống đỡ cũng như phản công không khoan nhượng trước những thế lực hiếu chiến phía nam, đặc biệt là Java. Nhưng chẳng bao lâu sau, một sự kiện lớn đã diễn ra ở phía bắc Chiêm Thành. Năm 938, Ngô Quyền với đại thắng Bạch Đằng đã khôi phục lại nền độc lập cho dân tộc Việt, kết thúc hơn ngàn năm bắc thuộc đầy khổ nhục, tù túng. Vùng lãnh thổ một thời gian dài là một châu quận xa xôi của các triều đại phương bắc chuyển mình thành một quốc gia với những sức mạnh mới. Trong khi đó, người Chiêm Thành vẫn có thói quen đánh cướp các vùng đất phía nam Giao Châu cũ để cướp của, bắt nô lệ. Việc này sẽ là mầm mống cho những mối binh đao tàn khốc về sau.
Quốc gia cổ Hoàn Vương gồm 5 xứ:
- Xứ Indrapura bao gồm đất đai tương ứng với ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày nay. Cư dân vùng này là sự pha trộn giữa người Việt cổ và người Chăm cổ.
- Xứ Amaravati tương ứng với hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay. Xứ này từng là vùng trung châu của người Chăm qua nhiều thế kỷ.
- Xứ Vijaya tương ứng với tỉnh Bình Định ngày nay là vùng thương cảng quan trọng của cả đất nước
- Xứ Kauthara tương ứng với tỉnh Khánh Hòa ngày nay
- Xứ Panduranga tương ứng với hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay. Xứ này có cư dân pha trộn với người Phù Nam.
Quốc Huy
Bài viết cùng chủ đề:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét