Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018

Đình Nam Đồng


Chủ Nhật 5, Tháng Tư 2015
  • delicious
  • googleplus
  • google
  • linkedin
  • live
  • reddit
Đình Nam Đồng có từ thế kỷ 17, trong thờ anh hùng Lý Thường Kiệt. Xếp hạng: Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (1991). Địa chỉ: số 73 phố Nguyễn Lương Bằng, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Toạ độ: 21°01’01’’N 105°49’45"E, cạnh Đàn Xã Tắc (Ô Chợ Dừa), cách Hồ Gươm chừng 4km về hướng tây-nam. Điểm dừng xe bus gần nhất: đoạn đầu phố Nguyễn Lương Bằng (bus 01, 02, 09, 30), hoặc đoạn cuối phố Xã Đàn (25, 28).
JPEG - 153.6 kb
Cổng đình Nam Đồng. Ảnh ©2015 NCCong

Lược sử

Đình Nam Đồng hiện nay nằm sát một trục giao thông rất quan trọng nối liền trung tâm thủ đô với vùng tây-nam của TP Hà Nội. Hàng ngày xe cộ qua lại nườm nượp và vội vã nên mặc dù có biển đề nhưng trừ dịp lễ hội khách bộ hành cũng khó nhận ra đây là một trong vài nơi thờ Thái úy Việt quốc công Lý Thường Kiệt trên địa phận kinh thành Thăng Long, quê hương của Ngài.
JPEG - 139.1 kb
Chính điện đình Nam Đồng. Ảnh ©2015 NCCong
Khỏi cần phải giới thiệu Lý Thường Kiệt bởi vì Ngài nổi tiếng cả sử sách Việt Nam lẫn Trung Quốc về buổi đầu kỷ nguyên độc lập và giữ nước của dân tộc ta, cách nay gần nghìn năm. Nhưng ít ai biết rằng mộ Ngài theo truyền thuyết được táng ở phía nam đàn xã tắc, nghĩa là thuộc chính khu vực Xã Đàn này. Đình có ít nhất từ thế kỷ 17, tới năm 1991 được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia với những tác phẩm chạm khắc gỗ độc đáo của các nghệ nhân thời Lê—Nguyễn, bên cạnh bi ký cổ văn và đồ tế khí tinh xảo.

Sân đình Nam Đồng. Panorama ©2015 NCCong
JPEG - 145.8 kb
Tả vu đình Nam Đồng. Ảnh ©2015 NCCong
Khuôn viên đình làng Nam Đồng trước đây khá đẹp và rộng rãi, ao đình phía trước chỉ bị san lấp vào cuối thế kỷ 19 khi con đường Hà Nội—Hà Đông được xây dựng hiện đại và nắn thẳng hơn bởi người Pháp. Một trăm năm sau thì mọi ruộng vườn xung quanh và tuyến xe điện đều biến mất hết, đường trở thành phố xá và nhà cửa mọc lên san sát, dần dần chen lấn thu hẹp cả hai bên và phía sau đình.
JPEG - 146.1 kb
Hữu vu đình Nam Đồng. Ảnh ©2015 NCCong

Kiến trúc

Dáng dấp ngôi đình ngày nay mang đậm phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Đình quay mặt về hướng tây-bắc, sát hè phố là tam quan với 4 trụ biểu, các mặt trụ đều viết câu đối chữ Hán, trên là lồng đèn ô vuông có đắp hình lân và tứ linh. Sân đình được lát gạch to, bên trái mới xây đài tưởng niệm liệt sĩ kiểu phương đình, bên phải có một cây sanh rễ mọc xù xì, sau gốc cây là hàng bia đá cổ dựng lại dọc tường.
Nền đình Nam Đồng hơi thấp do sân bị tôn cao sau nhiều đợt trùng tu. Qui mô đình khang trang với kết cấu hình chữ “Nhị”, gần đây sửa thành hình chữ “Đinh”. Tòa đại bái rộng 5 gian, cửa chính có đỉnh đá và bát bửu che chắn. Hương án đặt sau đôi hạc đồng, phía trước trải thảm đỏ giữa hai hàng lỗ bộ. Hai gian bên bày cỗ trống đại và chiêng đồng với cặp tượng ngựa hồng-bạch đối xứng đứng chầu vào chính điện.

Hậu cung đình Nam Đồng. Panorama ©2015 NCCong
JPEG - 94.9 kb
Dãy bia đá đình Nam Đồng. Ảnh ©2015 NCCong
Chái bên hữu tòa đại bái có ban thờ Hồ Chủ tịch, chái bên tả bày bảng xếp hạng Di tích và cỗ kiệu bát cống. Các cột đình đều treo những đôi câu đối chữ Hán. Tòa hậu cung rộng 3 gian, phía trước và dọc tường nhà thiêu hương mới xây là nơi xếp lễ vật. Đầu hàng hiên có cặp tượng hộ pháp Trừng Ác—Khuyến Thiện ôm đại đao đứng gác cung cấm, trong khám thờ đặt một pho tượng Lý Thường Kiệt khá lớn và long ngai, bài vị của Thành hoàng.

Lưu ý

Đình Nam Đồng hiện vẫn giữ được những mảng chạm khắc phong phú và đa dạng. Nhiều bức cốn có giá trị cao do được tạo tác độc đáo với những thủ pháp của nghệ thuật điêu khắc dân gian hồi thế kỷ 19. Cỗ ngai gỗ sơn son thếp vàng thậm chí còn mang niên đại cổ hơn vào thế kỷ 17.
Một trong các đôi câu đối ca ngợi Lý Thường Kiệt viết:
Phạt Tống phong công lưu đế giản
Bình Chiêm vĩ tích tại vương kỳ

Đông Tỉnh lạm dịch:
Dẹp Tống, vĩ công ghi sử đế,
Bình Chiêm, đại tích cắm cờ vua

Trống hội đình Nam Đồng. Panorama ©2015 NCCong
JPEG - 105.7 kb
Tượng Lý Thường Kiệt, đình Nam Đồng. Ảnh ©2015 NCCong
Ngoài các cổ vật khác như nhang án, hạc, đỉnh, lư hương, trong đình còn có tám tấm bia đá ghi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17 (năm 1756), Cảnh Hưng 32 (1771), Gia Long 14 (1815), Minh Mạng 17 (1836)... cùng một quả chuông đồng được đúc năm Chính Hoà 11 (1690).
Ngày 2-10-1991 Bộ Văn hóa và Thông tin đã xếp hạng đình Nam Đồng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Lễ hội đình làng được tổ chức mỗi năm hai lần, hội mùa xuân mở đúng dịp sinh nhật vị anh hùng Lý Thường Kiệt (ngày 16-17 tháng Hai âm lịch). Năm nay Ất Mùi, các bà các cô lại trang trọng dâng hương và lễ vật, có cả đoàn trống Thăng Long đến biểu diễn khai hội thật náo nhiệt.

Di tích lân cận

Bản đồ trực tuyến


Đông Tỉnh

Kỳ tích Lý Thường Kiệt thoát quan hầu thành võ tướng lẫy lừng nhất nước Việt

 Nhà văn Uông Triều
ANTD.VN - Bây giờ đi qua những con phố lớn của Hà Nội, nếu nhìn thấy một ngôi đình làng thì lạ lắm thay! Nhưng mà vẫn có, mỗi lần qua phố Nguyễn Lương Bằng, lòng tôi lại không nén nổi tò mò về một ngôi đình cổ, rồi phải dừng bước vào thăm vị thần chủ của ngôi đền: Lý Thường Kiệt - một trong những võ tướng lẫy lừng nhất nước Việt.
ảnh 1Một tượng đài Lý Thường Kiệt - hình mẫu danh tướng lẫy lừng nhất nước Việt 
Nam Đồng: Mảnh đất thái ấp dưỡng già 
Các tài liệu lịch sử đáng tin cậy đều khẳng định Lý Thường Kiệt (1019-1105) sinh ra đất Thăng Long và Nam Đồng chính là mảnh đất Vua Lý ban cho vị võ tướng làm thái ấp dưỡng già. Theo sách “Tây Hồ chí” thì Lý Thường Kiệt đã mất ở đất Nam Đồng và có mộ chôn tại đây. Chỉ tiếc là theo thời gian và biến động lịch sử đã không tìm được dấu tích. Dân Nam Đồng tôn ông làm thành hoàng làng bảo trợ cho dân và đình làng Nam Đồng từ một vị trí ven đô xưa kia giờ đã nằm giữa phố phường đông đúc.
Từ thái giám vươn tới tột đỉnh vinh quang
Tiểu sử xuất thân của Lý Thường Kiệt là một câu chuyện đầy ly kỳ, hấp dẫn. Ít ai ngờ rằng vị tướng oai dũng như vậy lại xuất thân từ thái giám. Lý Thường Kiệt khi trẻ là một cậu bé mặt mũi tươi đẹp, nguyên tên họ là Ngô Tuấn và được đưa vào cung làm “Hoàng môn chi hậu” theo hầu Vua Lý Thái Tông.
Nếu ai để ý thì thấy rằng trong lịch sử chế độ phong kiến nước Việt, thái giám là một chức vụ rất tầm thường, chỉ chuyên để phục vụ hoàng đế và hậu cung, hầu như không được tham dự vào việc triều chính. Thế mà từ một thái giám, Ngô Tuấn đã vươn lên vị trí tột đỉnh vinh quang và được vua ban quốc tính thì không phải là chuyện thường tình. Chỉ riêng việc thoát khỏi chức quan hầu và gia nhập hàng võ tướng đã là một kỳ tích, nỗ lực phi thường của Ngô Tuấn.
ảnh 2Lễ hội đình làng Nam Đồng 
Những thái giám tạo nghiệp hiển vinh
Xem lại lịch sử của các thái giám nước Việt thì rất hiếm người có sự nghiệp hiển vinh. Ngoài Lý Thường Kiệt có thể coi là vị thái giám nổi danh nhất thì các đời sau có thể kể đến Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc - một võ tướng uy dũng của chúa Trịnh Doanh. Hoàng Ngũ Phúc từng mang quân đánh bại quyền thần Trương Phúc Loan, từng được cử làm trấn thủ Thuận Hóa và trở  thành một trong những võ tướng có ảnh hưởng bậc nhất của thời Vua Lê, Chúa Trịnh.
Từ một thái giám, Ngô Tuấn (Lý Thường Kiệt) đã vươn lên vị trí tột đỉnh vinh quang và được vua ban quốc tính thì không phải là chuyện thường tình. Chỉ riêng việc thoát khỏi chức quan hầu và gia nhập hàng võ tướng đã là một kỳ tích, nỗ lực phi thường của Ngô Tuấn.
Một võ tướng xuất thân thái giám khác là Tả quân Lê Văn Duyệt, người được người dân Nam bộ yêu quý vì ông có công lớn với vùng đất này. Lê Văn Duyệt từng hai lần làm Tổng trấn Gia Định và có nhiều công lao trong việc phát triển vùng đất Nam bộ cũng như có những quan điểm khá cởi mở với người phương Tây và tôn giáo. Mặc dù lịch sử có những nhận định khác nhau về ông nhưng với người dân Nam bộ, Lê Văn Duyệt là một trong rất ít những võ tướng triều Nguyễn được người dân dành cho sự kính trọng đặc biệt.
Ngoài ra có thể kể thêm một nhân vật xuất thân thái giám khác đó là Nguyễn An, người đã bị đưa sang Trung Hoa và ông là người góp công lớn trong việc thiết kế, tu tạo cố cung Bắc Kinh khiến cho tòa thành cổ này có một diện mạo mà người đời sau phải ngưỡng mộ.
ảnh 3
Hiển hách những chiến công 
Quay lại cuộc đời của Lý Thường Kiệt, từ một vị trí quan hầu, dần dần ông đã giành được những vị trí quan trọng. Chiến công lớn đầu tiên của ông là năm 1061 ông được cử đi bình định vùng đất Thanh Nghệ và nhờ tài nghệ của mình, ông đã khiến cho một dải non sông được yên bình. Đến năm 1069, Lý Thường Kiệt lại theo Vua Lý Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành, ông là tướng tiên phong và bắt được Vua Chiêm là Chế Củ. Sau sự kiện này, Chiêm Thành đã cắt 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính cho Đại Việt để đổi lấy tự do của Chế Củ.
Cũng chính Lý Thường Kiệt là người có vai trò lớn trong việc nâng cao vị thế và vai trò của Thái hậu Ỷ Lan. Theo nhà sử học Hoàng Xuân Hãn, nếu không có sự hậu thuẫn và ủng hộ của Lý Thường Kiệt thì Ỷ Lan khó lòng nhiếp chính và có thể đưa ra những quyết định quan trọng trong lúc Vua Lý Nhân Tông, con trai bà còn nhỏ tuổi.
Nói đến sự chủ động và tài nghệ cầm quân của Lý Thường Kiệt có lẽ đáng kể nhất là chủ trương “tiên phát chế nhân” của ông. Nước Việt từ rất lâu đời luôn bị quốc gia hùng mạnh láng giềng xâm chiếm và trong tình thế bị động chống đỡ với ngoại xâm. Khi nhà Tống, dưới mưu đồ của tể tướng Vương An Thạch đang chuẩn bị lực lượng tiến đánh Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã dâng một kế sách táo bạo chưa từng có - đó là ngăn chặn hiểm họa xâm lăng từ xa, không cho chúng có cơ hội và sức mạnh để đánh chiếm nước Việt. Lý Thường Kiệt đã chủ trương đánh châu Khâm, Liêm, Ung của nhà Tống để ngăn chặn trước một cuộc tiến đánh nước Việt và chủ trương của ông đã giành thắng lợi rực rỡ.

Năm 1076, nhà Tống sai Quách Quỳ mang 10 vạn quân tiến đánh Đại Việt và một lần nữa Lý Thường Kiệt trổ tài thao lược của mình. Dưới sự chỉ huy của ông, quân dân Đại Việt đã giáng cho quân Tống những đòn nặng nề. Đặc biệt là trận chiến ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu), quân Tống đã bị những thiệt hại nghiêm trọng. Và chính ở trận đánh nổi tiếng này đã xuất hiện bài thơ thần nổi tiếng “Nam Quốc Sơn Hà” mà Lý Thường Kiệt cho người tâm phúc vào ngôi đền Trương Hống, Trương Hát ở bờ sông đọc giữa đêm khuya để khích lệ tinh thần binh sĩ và làm khiếp nhược quân thù.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. 
Và ở chính ở bài thơ này, vị trí của nước Việt lại được khẳng định sự độc lập và bình đẳng với các nước láng giềng. Bị thiệt hại quá nhiều ở phòng tuyến sông Như Nguyệt và biết không thể thắng được Đại Việt, quân Tống buộc phải rút về nước.
                       *    *    *
Đình Nam Đồng bây giờ nằm trên phố Nguyễn Lương Bằng, một trong những trục phố huyết mạch của tuyến đường từ phía Hà Đông đi vào trung tâm thành phố. Cạnh đình Nam Đồng có cổng làng Nam Đồng đã rêu mốc với thời gian như những minh chứng về một vùng đất xưa kia từng là ngoại ô giờ đã thành trung tâm thành phố. Làng xã thành phố xá. Lịch sử có những biến chuyển mạnh mẽ nhưng ký ức, hình ảnh của một ngôi đình cổ, cổng làng xưa cũ như một minh chứng rằng diện mạo có thể đổi thay nhưng lịch sử và tinh thần bất khuất của dân tộc thì mãi như một dấu son khắc sâu vào tâm khảm mỗi cư dân nước Việt.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét