Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018

Đền Hát Môn


Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng. Xếp hạng: Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt (năm 2014). Địa chỉ: xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Toạ độ: 21°07’46"N 105°36’44"E; cách thị trấn Phùng chừng 8km về hướng bắc và cách Hồ Gươm khoảng 26km về hướng tây. Điểm dừng xe bus gần nhất: ngã ba Hồng Hà—Hát Môn (bus 20c, tuyến Nhổn—Võng Xuyên).

Bản đồ trực tuyến

Giới thiệu

JPEG - 123 kb
Tam quan nội đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Du khách từ Hà Nội theo quốc lộ 32 đi hết thị trấn Phùng sẽ đến xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ (xưa là Phúc Lộc, tỉnh Sơn Tây), nơi có một trong ba ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và lâu đời nhất của nước ta. Trước kia, ngôi đền vốn nằm trên bãi cát ở cửa sông Hát (đoạn sông Đáy đổ ra sông Hồng), sau do sông đổi dòng nên đền đã vào sâu trong đất liền.
JPEG - 117.7 kb
Thủy đình trước đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Hát Môn nghĩa là cửa sông Hát, nơi Hai Bà Trưng lập đàn và mở hội thề tụ nghĩa vào năm 40 đầu công nguyên, trước khi xuất quân đuổi thái thú Tô Định về Hán. Sau khi chiếm được các thành trì ở Lĩnh Nam, Hai Bà bèn tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc bây giờ).
Năm 43, vua Hán sai danh tướng Mã Viện sang xâm lược. Sau trận đầu thất bại, hắn bày kế mai phục lật lại tình thế. Hai Bà phải rút quân về giữ Cấm Khê, cuối cùng nhảy xuống sông Hát tự vẫn. Sau này nhân dân xã Hát Môn lập đền thờ Hai Bà ở kề chân đê.

Kiến trúc

Tương truyền ngôi đền Hát Môn xây vào thời Tiền Lê (thế kỷ 10). Sau nhiều lần trùng tu, diện mạo hiện tại mang dấu vết nghệ thuật kiến trúc của thế kỷ 19. Từ hai ngả đường đê hướng về cổng đền có hai tấm bia đề chữ "Hạ mã" nhắc nhở các quan binh xưa kia qua đây phải xuống ngựa và đi bộ để tôn kính Hai Bà.
JPEG - 183.3 kb
Sân tiền đường đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Hai bên cổng đền có đắp nổi đôi câu đối tỏ rõ ý chí bất khuất của dân ta:
Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cẩm Khê doanh hạc Hát giang trường

Đông Tỉnh tạm dịch:
Mặc cột đồng lành nát, núi Lĩnh cứ vươn cao
Dù Cẩm Khê vơi đầy, sông Hát còn chảy mãi
JPEG - 104.3 kb
Đàn thề trước đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Trước tiên, khách thường vào miếu "Bà hàng nước" nơi thờ người phụ nữ đã khuyên Hai Bà tự vẫn để giữ trọn khí tiết. Tiếp theo mới đi qua hai trụ đồng được coi như cổng đền; Cao Bá Quát đã tiến cúng đền Hát Môn một đôi câu đối được khắc trên cột trụ:
Túng bất kim đao [1] thiên khai vận
Ưng vô đồng trụ đái phân cương

Đông Tỉnh tạm dịch:
Dao vàng há chẳng xây lại nước
Cột đồng sao có dựng thành biên
JPEG - 169.3 kb
Bên hông đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Từ cổng đền đi xuống, du khách sẽ thấy hồ nước với thủy đình mới xây ở bên phải rồi đến tam quan nội ở bên trái. Qua một sân rồng với những phiến đá xanh có chạm khắc từ thời Lê là đến cửa tòa tiền tế 5 gian, mặt nhìn về hướng tây. Sau đó trên nền đắp cao dần là các tòa thiêu hương và hâu cung, nơi có khám thờ với tượng Hai Bà ở bên trong.
Phía bên tả ngôi đền cũ gần đây có xây mới một tòa nhà to và khu phụ. Phía trước tam quan nội cũng được mở rộng với một đàn thề lớn và bầy voi ngựa đá chầu về.

Lưu ý

Ngôi đền Hát Môn hiện lưu giữ được nhiều đồ thờ cúng cùng hoành phi, câu đối nói lên khí phách, tinh thần quật khởi và công đức của Hai Bà đối với non sông xã tắc. Chính giữa đền treo một bức đại tự đề 4 chữ 樂 雄 正 統 (Lạc Hùng chính thống). Tại tòa tiền tế và thiêu hương có lỗ bộ và các hương án, cửa võng thiếp vàng lộng lẫy. Trong hậu cung đặt hai long ngai bài vị của Hai Bà.
JPEG - 172.6 kb
Trong tòa tiền tế đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Ngoài ra, còn nhiều cổ vật khác có giá trị lịch sử và mang đậm phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê-Nguyễn. Máu Hai Bà và chiến sĩ tô thắm non sông, vì vậy toàn bộ đồ thờ cũ ở đền Hát Môn đều sơn màu đen, kiêng màu đỏ. Trước kia, người đến tế lễ cũng như dự hội ở Hát Môn đều không được ăn vận quần áo, trang phục màu đỏ; nếu có thì phải để ở ngoài đền.
Đáng chú ý là nội dung của một đôi câu đối viết bằng chữ Hán vào thế kỷ 19:
Đại nghĩa phục phu thù do lệnh Đông Hán đương thời Lĩnh Nam lục thập ngũ thành lao viễn lược
Hồng đồ triệu quốc thống tòng thử Hoàng Đinh nhi hậu Việt Điện sổ thiên dư tải định thiên thư

Văn Nhân dịch là: 
Nghĩa lớn báo thù chồng, sánh ngang Đông Hán cùng thời, sáu mươi lăm thành Lĩnh Nam lập kế lớn
Cơ đồ dựng quốc thống, từ đó Hoàng Đinh về sau, trên mấy nghìn năm Việt Điện định sách trời.
JPEG - 166.8 kb
Hương án sơn đen trong đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Phía sau đền Hát Môn có một gò thấp gọi là gò Ngọc Ấn, tương truyền nghĩa quân của Hai Bà đã chôn giấu các ấn tín và ngọc tỷ tại đây. Ngôi đền trải qua hàng ngàn năm đã nổi tiếng rất linh thiêng. Năm 1991 được nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá quốc gia, đến năm 2014 nâng lên thành Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.

Lễ hội

Lễ hội đền Hát Môn diễn ra mỗi năm 3 lần vào các ngày mồng 6 tháng Ba, mồng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch.
JPEG - 178.3 kb
Lễ tế tại đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Lễ hội mồng 4 tháng Chín kỷ niệm ngày Hai Bà làm lễ xuất quân. Trong ngày này sẽ diễn trò múa cờ với sự tham gia của các trai làng. Đây là một dịp có rất đông khách thập phương trẩy hội.
Lễ hội mồng 6 tháng Ba tổ chức vào ngày hoá của Hai Bà Trưng, là lễ hội chính hằng năm. Trong ngày hội, dân làng cúng Hai Bà bằng những mâm đầy các đĩa bánh trôi [2]. Bánh trôi dâng lên phải có đủ 100 viên rất nhỏ, sau khi tế lễ xong, làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả xuống dòng sông để trôi về biển cả. Đặc biệt, dân làng Hát Môn không làm và không ăn bánh trôi trước ngày 6 tháng Ba.
JPEG - 190.1 kb
Khám thờ Hai Bà trong đền Hát Môn. Ảnh ©2015 NCCong
Lễ hội ngày 24 tháng Chạp là lễ Mộc dục (tắm tượng) được tổ chức rất trang nghiêm. Để chuẩn bị cho lễ Mộc dục, làng Hát Môn chọn 20 tráng đinh, vào nửa đêm ngày 23 sang ngày 24 rước tượng Hai Bà từ trong hậu cung ra nhà Dội (nhà tắm tượng). Cùng lúc đó, dân chài Hát Môn, cũng gọi là vạn Hát, sắm sửa thuyền chở lọ (hoặc bình, ang, hũ) đựng nước ra giữa sông Hồng lấy nước về nhà Dội để làm lễ. Gọi là tắm tượng nhưng người ta chỉ lau phủ bụi bặm trên tượng, rồi dùng khăn nhúng nước (thường pha hương hoa, lá thơm) để lau lần nữa. Sau cùng, rước tượng về bày thờ ở hậu cung.

Di tích lân cận

Chú thích

[1] “kim đao” 金刀 là chiết tự từ chữ “Lưu” 劉, họ của vua Hán.
[2] Theo truyền thuyết thì khi bị vây hãm, Hai Bà đã trở về vùng căn cứ cũ tại Hát Môn, đói bụng ghé vào quán hàng nước của một bà già ăn đĩa bánh trôi và 2 quả muỗm.

Bài và ảmh: NCC Đông Tỉnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét