Bản đồ trực tuyến
Giới thiệu
Du khách từ Hà Nội theo quốc lộ 32 đi hết thị trấn Phùng sẽ đến xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ (xưa là Phúc Lộc, tỉnh Sơn Tây), nơi có một trong ba ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và lâu đời nhất của nước ta. Trước kia, ngôi đền vốn nằm trên bãi cát ở cửa sông Hát (đoạn sông Đáy đổ ra sông Hồng), sau do sông đổi dòng nên đền đã vào sâu trong đất liền.
Hát Môn nghĩa là cửa sông Hát, nơi Hai Bà Trưng lập đàn và mở hội thề tụ nghĩa vào năm 40 đầu công nguyên, trước khi xuất quân đuổi thái thú Tô Định về Hán. Sau khi chiếm được các thành trì ở Lĩnh Nam, Hai Bà bèn tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc bây giờ).
Năm 43, vua Hán sai danh tướng Mã Viện sang xâm lược. Sau trận đầu thất bại, hắn bày kế mai phục lật lại tình thế. Hai Bà phải rút quân về giữ Cấm Khê, cuối cùng nhảy xuống sông Hát tự vẫn. Sau này nhân dân xã Hát Môn lập đền thờ Hai Bà ở kề chân đê.
Kiến trúc
Tương truyền ngôi đền Hát Môn xây vào thời Tiền Lê (thế kỷ 10). Sau nhiều lần trùng tu, diện mạo hiện tại mang dấu vết nghệ thuật kiến trúc của thế kỷ 19. Từ hai ngả đường đê hướng về cổng đền có hai tấm bia đề chữ "Hạ mã" nhắc nhở các quan binh xưa kia qua đây phải xuống ngựa và đi bộ để tôn kính Hai Bà.
Hai bên cổng đền có đắp nổi đôi câu đối tỏ rõ ý chí bất khuất của dân ta:
Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cẩm Khê doanh hạc Hát giang trường
Đông Tỉnh tạm dịch:
Mặc cột đồng lành nát, núi Lĩnh cứ vươn cao
Dù Cẩm Khê vơi đầy, sông Hát còn chảy mãi
Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cẩm Khê doanh hạc Hát giang trường
Đông Tỉnh tạm dịch:
Mặc cột đồng lành nát, núi Lĩnh cứ vươn cao
Dù Cẩm Khê vơi đầy, sông Hát còn chảy mãi
Trước tiên, khách thường vào miếu "Bà hàng nước" nơi thờ người phụ nữ đã khuyên Hai Bà tự vẫn để giữ trọn khí tiết. Tiếp theo mới đi qua hai trụ đồng được coi như cổng đền; Cao Bá Quát đã tiến cúng đền Hát Môn một đôi câu đối được khắc trên cột trụ:
Túng bất kim đao [1] thiên khai vận
Ưng vô đồng trụ đái phân cương
Đông Tỉnh tạm dịch:
Dao vàng há chẳng xây lại nước
Cột đồng sao có dựng thành biên
Túng bất kim đao [1] thiên khai vận
Ưng vô đồng trụ đái phân cương
Đông Tỉnh tạm dịch:
Dao vàng há chẳng xây lại nước
Cột đồng sao có dựng thành biên
Từ cổng đền đi xuống, du khách sẽ thấy hồ nước với thủy đình mới xây ở bên phải rồi đến tam quan nội ở bên trái. Qua một sân rồng với những phiến đá xanh có chạm khắc từ thời Lê là đến cửa tòa tiền tế 5 gian, mặt nhìn về hướng tây. Sau đó trên nền đắp cao dần là các tòa thiêu hương và hâu cung, nơi có khám thờ với tượng Hai Bà ở bên trong.
Phía bên tả ngôi đền cũ gần đây có xây mới một tòa nhà to và khu phụ. Phía trước tam quan nội cũng được mở rộng với một đàn thề lớn và bầy voi ngựa đá chầu về.
Lưu ý
Ngôi đền Hát Môn hiện lưu giữ được nhiều đồ thờ cúng cùng hoành phi, câu đối nói lên khí phách, tinh thần quật khởi và công đức của Hai Bà đối với non sông xã tắc. Chính giữa đền treo một bức đại tự đề 4 chữ 樂 雄 正 統 (Lạc Hùng chính thống). Tại tòa tiền tế và thiêu hương có lỗ bộ và các hương án, cửa võng thiếp vàng lộng lẫy. Trong hậu cung đặt hai long ngai bài vị của Hai Bà.
Ngoài ra, còn nhiều cổ vật khác có giá trị lịch sử và mang đậm phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê-Nguyễn. Máu Hai Bà và chiến sĩ tô thắm non sông, vì vậy toàn bộ đồ thờ cũ ở đền Hát Môn đều sơn màu đen, kiêng màu đỏ. Trước kia, người đến tế lễ cũng như dự hội ở Hát Môn đều không được ăn vận quần áo, trang phục màu đỏ; nếu có thì phải để ở ngoài đền.
Đáng chú ý là nội dung của một đôi câu đối viết bằng chữ Hán vào thế kỷ 19:
Đại nghĩa phục phu thù do lệnh Đông Hán đương thời Lĩnh Nam lục thập ngũ thành lao viễn lược
Hồng đồ triệu quốc thống tòng thử Hoàng Đinh nhi hậu Việt Điện sổ thiên dư tải định thiên thư
Văn Nhân dịch là:
Nghĩa lớn báo thù chồng, sánh ngang Đông Hán cùng thời, sáu mươi lăm thành Lĩnh Nam lập kế lớn
Cơ đồ dựng quốc thống, từ đó Hoàng Đinh về sau, trên mấy nghìn năm Việt Điện định sách trời.
Đại nghĩa phục phu thù do lệnh Đông Hán đương thời Lĩnh Nam lục thập ngũ thành lao viễn lược
Hồng đồ triệu quốc thống tòng thử Hoàng Đinh nhi hậu Việt Điện sổ thiên dư tải định thiên thư
Văn Nhân dịch là:
Nghĩa lớn báo thù chồng, sánh ngang Đông Hán cùng thời, sáu mươi lăm thành Lĩnh Nam lập kế lớn
Cơ đồ dựng quốc thống, từ đó Hoàng Đinh về sau, trên mấy nghìn năm Việt Điện định sách trời.
Phía sau đền Hát Môn có một gò thấp gọi là gò Ngọc Ấn, tương truyền nghĩa quân của Hai Bà đã chôn giấu các ấn tín và ngọc tỷ tại đây. Ngôi đền trải qua hàng ngàn năm đã nổi tiếng rất linh thiêng. Năm 1991 được nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá quốc gia, đến năm 2014 nâng lên thành Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Lễ hội
Lễ hội đền Hát Môn diễn ra mỗi năm 3 lần vào các ngày mồng 6 tháng Ba, mồng 4 tháng Chín và 24 tháng Chạp âm lịch.
Lễ hội mồng 4 tháng Chín kỷ niệm ngày Hai Bà làm lễ xuất quân. Trong ngày này sẽ diễn trò múa cờ với sự tham gia của các trai làng. Đây là một dịp có rất đông khách thập phương trẩy hội.
Lễ hội mồng 6 tháng Ba tổ chức vào ngày hoá của Hai Bà Trưng, là lễ hội chính hằng năm. Trong ngày hội, dân làng cúng Hai Bà bằng những mâm đầy các đĩa bánh trôi [2]. Bánh trôi dâng lên phải có đủ 100 viên rất nhỏ, sau khi tế lễ xong, làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả xuống dòng sông để trôi về biển cả. Đặc biệt, dân làng Hát Môn không làm và không ăn bánh trôi trước ngày 6 tháng Ba.
Lễ hội ngày 24 tháng Chạp là lễ Mộc dục (tắm tượng) được tổ chức rất trang nghiêm. Để chuẩn bị cho lễ Mộc dục, làng Hát Môn chọn 20 tráng đinh, vào nửa đêm ngày 23 sang ngày 24 rước tượng Hai Bà từ trong hậu cung ra nhà Dội (nhà tắm tượng). Cùng lúc đó, dân chài Hát Môn, cũng gọi là vạn Hát, sắm sửa thuyền chở lọ (hoặc bình, ang, hũ) đựng nước ra giữa sông Hồng lấy nước về nhà Dội để làm lễ. Gọi là tắm tượng nhưng người ta chỉ lau phủ bụi bặm trên tượng, rồi dùng khăn nhúng nước (thường pha hương hoa, lá thơm) để lau lần nữa. Sau cùng, rước tượng về bày thờ ở hậu cung.
Di tích lân cận
- Chùa Tây Phương: xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất.
- Chùa Thầy: xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai.
- Đền Và: thị xã Sơn Tây.
- Làng cổ Đường Lâm: xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây.
- Thành cổ Sơn Tây: thị xã Sơn Tây.
Chú thích
[1] “kim đao” 金刀 là chiết tự từ chữ “Lưu” 劉, họ của vua Hán.
[2] Theo truyền thuyết thì khi bị vây hãm, Hai Bà đã trở về vùng căn cứ cũ tại Hát Môn, đói bụng ghé vào quán hàng nước của một bà già ăn đĩa bánh trôi và 2 quả muỗm.
[2] Theo truyền thuyết thì khi bị vây hãm, Hai Bà đã trở về vùng căn cứ cũ tại Hát Môn, đói bụng ghé vào quán hàng nước của một bà già ăn đĩa bánh trôi và 2 quả muỗm.
Bài và ảmh: NCC Đông Tỉnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét