Bản đồ trực tuyến
Lược sử
Đền Và còn gọi là Đông Cung, tức cung phía đông núi Ba Vì trong hệ thống tứ cung của xứ Đoài (ngoài Bắc Cung thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; Nam Cung thuộc xã Tản Lĩnh, Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà Nội), thờ thần núi Tản Viên, vị thần đứng đầu “tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Tuy dáng dấp đền hiện nay mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn nhưng tấm bia "Vân Già đông trấn cung ký" dựng năm Tự Đức thứ 36 (1883) ở đầu hồi nhà tiền tế cho biết ngôi đền đã có từ thời Đường. Thời Hậu Lê, nơi đây thuộc lỵ sở của huyện Tùng Thiện cũ.
Đền tọa lạc trên một quả đồi thấp, rộng khoảng 17.500 m², tựa hình con rùa đang duỗi bốn chân và ngóng đầu về hướng đông ra đầm Vân Mộng, cách thành cổ Sơn Tây gần 2km về phía tây. Theo truyền thuyết, đây là một hành cung của Tản Viên Sơn Thánh mỗi khi đi tuần thú hoặc du ngoạn. Bao quanh khu vực kiến trúc rộng khoảng 2000m² là bức tường đá ong cao hơn 2m được xây hai lớp theo kiểu “thượng thu hạ thách”, ở giữa lèn đất thó. Trong dân gian vẫn đồn rằng đá ong xây tường được lấy ở đồi Vông thuộc thôn Vân Gia, còn gọi là "xóm Rắn", cho nên có câu thành ngữ "cấu cổ con xà, đè cổ con quy".
Cũng theo truyền thuyết thì trong một lần đi chơi, thần núi Tản Viên kéo vó bắt được 100 con cá. Thấy có con cá trê chửa đang quẫy, ngài bèn thả ra sông. Con cá mẹ sau khi sinh nở xong đã đem một bầy gồm 9 con nhỏ về chầu Đức Thánh, rồi hóa đá và trở thành một di tích. Xưa kia người ta có thể nhìn thấy đủ cả đàn cá bằng đá nhưng hiện nay chỉ còn mỏm đá hình cá mẹ. Xóm nhỏ nơi có mỏm đá này được gọi là xóm Cá Trê, nằm không xa đền Và.
Năm 1964 Bộ Văn hoá đã công nhận và xếp hạng đền Và là Di tích lịch sử văn hoá quốc gia..
Kiến trúc và di vật
Cho đến nay, đền Và đã trải qua nhiều lần sửa chữa và tôn tạo, trong đó có cuộc đại trùng tu vào năm 1884 và gần đây nhất là năm 2008. Từ quốc lộ QL32 hoặc QL21 đều có lối rẽ vào con đường Đền Và, dẫn đến một giếng nhỏ là nơi du khách rửa chân tay trước khi lên sắp lễ. Đền xoay hướng Tây- Nam, tại sân gạch rộng khoảng 300 m2 ở ngoài cổng tam quan có một bức bình phong hai mặt, trong hang động ở phía trước là bộ tượng ngũ hổ với 5 màu khác nhau, mặt sau hướng vào tam quan và đắp hình “long cuốn thuỷ” dưới dạng tứ linh.
Tam quan là một nếp nhà 3 gian với trang trí rất đẹp và ba hàng cột gỗ kê trên những chân tảng đá ong. Bước lên bậc thềm cao rồi đi qua cổng tam quan vào sân giữa ta sẽ thấy hai bên là gác trống và gác chuông đối diện nhau. Cả hai căn gác đều xây kiểu chồng diêm 8 mái, tầng trên có cửa tò vò và được trang trí theo chủ đề ngũ phúc với hình tượng 5 con dơi xoè cánh ôm lấy khung tròn. Tiếp theo là hai dãy tả hữu mạc xây 3 gian kiểu tường hồi bít đốc, nóc kết cấu "vì kèo quá giang", mặt trước có cột vuông trên nền tam cấp, mặt trong để trống. Phía sau tả hữu mạc mỗi bên đều có nhà tạo soạn và là nơi nghỉ tạm cho khách hành hương.
Toà tiền tế ở giữa gồm 5 gian 2 chái kiểu “chồng rường, giá chiêng”; bên trong treo những bức hoành phi, câu đối do các danh sĩ như Nguyễn Khản, Nguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân... soạn ra, nội dung ca ngợi cảnh đền và tôn vinh công đức của thần núi Tản Viên. Ngôi nhà này đã trải qua 3 lần tu sửa lớn vào các năm: 1829 (Minh Mạng thứ 10), 1902 (Thành Thái thứ 14) và 1932 (Bảo Đại thứ 7). Ngoài đầu hồi nhà tiền tế còn có tháp thiêu hương mới xây.
Sau tiền tế là tòa hậu cung xây theo hình chữ "công", định hình từ đợt tu tạo vào các năm 1915-1919. Nhà ngoài gồm 3 gian 2 chái lớn, có 4 bức tượng kích thước như người thật, đứng nhìn vào nhau, tay cầm vũ khí và khoác áo bào đỏ, gọi là "Tứ Thánh" trấn ở bốn cung quanh núi Ba Vì. Ngoài hiên còn có 2 pho tượng quan văn, quan võ ngồi đối diện. “Ống muống” có một bộ vì lớn, làm theo kiểu “thượng ván mê, hạ chồng rường” trên xà nách. Bên dưới bộ vì mở 3 cửa, 2 cửa bên dẫn vào cung cấm, cửa giữa là cửa thờ. Cung cấm cũng có kết cấu 3 gian 2 chái nhưng thấp hơn nhà ngoài, bên trong đặt một khám thờ cao hơn 3m, sơn son thếp vàng, chạm trổ cầu kỳ theo phong cách nghệ thuật thế kỷ 17..
Cung cấm bày bài vị của mẹ Thánh Tản Viên là Đức Quốc Mẫu Đinh Thị Điên, dân kiêng gọi chệch đi là Bà Đen. Tiếp đến trước khám thờ có hương án bày long ngai bài vị của Tam vị, gồm Thánh Tản Viên và hai người em con chú là Cao Sơn, Quý Minh; phía trên treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh thần" ghi niên đại “Tự Đức Quý Mùi” (1883). Trong đền hiện đang lưu giữ 5 bản thần tích "Tản Viên Sơn Thánh", 18 đạo sắc phong của các đời vua, 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết trên vách cột và 18 bức hoành phi bằng gỗ hoặc đá… Ngoài ra còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ
Lễ hội đền Và
Mỗi năm tại đây diễn ra 2 kỳ lễ hội. Hội mùa xuân vào dịp rằm tháng Giêng, kéo dài từ khoảng 13 đến 15 (âm lịch) với nghi lễ trung tâm là rước long ngai bài vị "Tam vị Đức Thánh Tản" từ đền Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở đền Dội (xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để tế lễ diễn lại sự tích này rồi quay trở lại đền Và. Cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính. Hội mùa thu tổ chức vào rằm tháng Chín, từ 14 đến 15 (âm lịch) với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99 con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh. Lễ tế này xuất phát từ truyền thuyết Đức Thánh dạy dân kéo vó và bắt được 100 con cá, sau đó ngài phóng sinh một con cá trê đang có chửa như đã nói ở trên.
Di tích lân cận
- Chùa Mía: xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây
- Đền Hát Môn: xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ
- Làng cổ Đường Lâm: xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây
- Thành cổ Sơn Tây: thị xã Sơn Tây
Bài và ảnh: Đông Tỉnh NCCong
Di tích Quốc gia Đền Và
Đền Và hay còn gọi là Đông Cung, tọa lạc tại thôn Vân Gia, phường Trung Hưng, thị xã Sơn Tây (Hà Nội), là một trong tứ cung của xứ Đoài (Bắc Cung thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; Nam Cung thuộc xã Tản Lĩnh, Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà Nội), thờ Tản Viên Sơn Thánh - vị thần đứng đầu trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian.
Nhà tiền tế (hay tiền bái) rộng năm gian, hình chữ “nhất”, kiến trúc theo lối 5 gian 2 chái chồng rường, giá chiêng có bức hoành phi chính giữa, sơn son thếp vàng có ghi bốn chữ “Nam Thiên Thánh Tổ”.
Đền xây dựng trên đồi rộng, bao quanh là hàng trăm cây lim cổ thụ; trong đó có 85 cây lim cổ cùng bốn cây cổ thụ khác được công nhận là cây di sản. Theo tấm văn bia dựng vào năm Tự Đức thứ 36 (năm 1883) tại đền, thì Đền Và đã có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường. Cho đến nay, nhà tiền tế đã trải qua 3 lần tu sửa lớn.
Đền Và thờ vị thần trong Tứ bất tử của truyền thuyết nước Nam.
Nghi môn được xây dựng gồm ba gian dựng trên nền cao. Cổng chính với 3 hàng chân cột gỗ kê trên những tảng đá ong. Bên cạnh cổng chính là hai bên gác chuông và gác trống.
Gác chuông và gác trống có kiến trúc tương tự nhau, được trang trí theo chủ đề ngũ phúc bằng hình năm con dơi xòe cánh ôm lấy cửa sổ tròn.
Trong đền có rất nhiều di vật quý còn được lưu giữ: Khám thờ có bài vị Đức Quốc mẫu, bốn pho tượng tứ trấn, 18 đạo sắc phong, 47 đôi câu đối, 18 bức hoành phi, hai tấm bia đá... Hằng năm, vào tháng Giêng và tháng Chín (âm lịch), Đền Và tổ chức lễ hội thu hút hàng chục ngàn du khách thập phương về dâng hương tỏ lòng tri ân Đức Thánh Tản đối với dân, với nước.
Một trong 85 cây lim xanh - Cây di sản Việt Nam tại Đền Và.
Với những giá trị văn hóa, lịch sử quý giá, năm 1964, Đền Và được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Năm 2016, lễ hội Đền Và đã vinh dự được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét