Bản đồ trực tuyến
Giới thiệu
Xưa kia, đình Đại thuộc thôn Hồng Mai, tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), vì kiêng huý của vua là Hồng Nhậm nên đổi thành thôn Bạch Mai. Thời Pháp thuộc, năm Khải Định 9 (1924) thì trở thành phường Bạch Mai, thuộc Đại Lý Hoàn Long, tỉnh Hà Đông. Ngày nay địa danh này lưu lại ở tên con phố nối phố Huế tại ngã năm Cầu Dền với phố Trương Định ở ngã tư chợ Mơ.
Theo Lý Khắc Cung[1], đình Đại nằm trong cụm di tích lịch sử ở phía Bắc khu vực Bạch Mai, bao gồm chùa Liên Phái và các địa chỉ văn hóa quanh đấy như: chùa Hương Tuyết, đình Đông, đình Tô Hoàng, chùa Vua, đàn Nam Giao[2]. Ngay sát cạnh đình từng có con đường Thiên Lý nổi tiếng, nối liền cửa ô Cầu Dền của thành Thăng Long với các trấn và các tỉnh phía Nam. Xưa kia đó là một con đường nhỏ, hun hút dài xuyên qua những đồi cây rậm rạp và cả một rừng mai (mơ). Năm 1592, quân nhà Mạc đã giao tranh với quân nhà Trịnh tại đây.
Trước kia nơi đây cũng như các đình làng khác vẫn có những buổi cúng lễ, rước kiệu. Nhưng Đình Đại còn là một nơi tập trung của dân tứ chiếng từ các ngả đường dẫn tới kinh đô. Thời xưa, cứ cuối buổi chiều là cửa ô Cầu Dền đóng kín lại, không ai được đi qua, chỉ trừ những người cầm hoả bài "Khẩn cấp". Tất cả những kẻ chậm chân đều phải nghỉ lại ở Đình Đại, đợi đến sáng hôm sau, khi cửa ô mở mới được vào thành. Cũng có một số người buôn bán muốn tranh thủ thời gian đã vào thành từ lúc 4 giờ chiều, nhưng phải nghỉ lại trong một cái chợ, ăn uống, ngủ qua đêm và sửa soạn lại hàng để sáng sớm hôm sau đem đi bán ở các chợ, các phố nội đô. Nơi tập trung đó gọi là chợ Hôm, cái tên cổ được giữ mãi cho đến tận bây giờ.
Đình Đại không chỉ từng là nơi dừng chân cho mọi lớp người trong xã hội mà còn là một khu du lịch, vui chơi sầm uất của một thời. Những kẻ đến đây có thể tuỳ hứng đi thăm các chùa, đền, đình gần đó hoặc xuống các vườn mơ mát mẻ, rộng rãi với các quán rượu ven đường, hoặc đến các quán ăn ở Vân Hồ. Rượu làng Mơ và nước mắm Kẻ Đô trước hết được đem bán ở đây rồi mới toả đi khắp nơi và đã trở nên nổi tiếng.
Lược sử
Đình Đại được xây dựng cách nay khá lâu và đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa lớn vào những đời Vĩnh Thịnh (1705), Cảnh Hưng (1774), Minh Mạng (1840), Thành Thái, Khải Định. Ban đầu, ngôi đình chỉ có gian giữa cao 5m, tương truyền thờ đức Thành hoàng là [Cao Sơn Đại vương?] một trong 50 người con của Lạc Long Quân theo mẹ lên núi, sau này trở thành thuộc tướng thân cận của Sơn Tinh.
Gian bên trái thờ Âu Cơ, sau ghép với thờ Mẫu Liễu Hạnh. Gian bên phải thờ các Cô, Cậu của đạo Lão, tức theo xu hướng Tam giáo đồng lưu. Ngoài ra còn thờ cả hai ông phỗng là những người hầu cận của Đại vương với nét mặt tươi cười, hóm hỉnh của các vai "hề chèo" xuất hiện sau này. Đình đã được Bộ Văn hóa — Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hoá năm 1996.
Kiến trúc
Trước kia không gian Đình Đại vốn được để mở ra bốn phương tám hướng chứ không xây gạch kín xung quanh. Mọi người có thể đến thăm đình từ bất kỳ hướng nào, qua những con đường tắt và đường lớn. Bây giờ làng xóm và đồng ruộng đều đã thành đô thị, ngôi đình bị lấn lướt nhiều, du khách đi đến tận cổng mới nhận dạng được.
Ngôi đình này có tòa tiền tế gồm 5 gian quay về hướng đông-nam, trên bờ nóc có đắp 4 chữ Hán “Bạch Mai Đình Đại”. Hậu cung 3 gian, kết nối với tiền tế theo hình chuôi vồ. Tất cả bộ mái đình đều lợp ngói ta. Sân đình xưa rộng, lát gạch cổ, có cổ thụ, vườn hoa và một giếng thơi hình bầu dục. Khung cửa đình bằng gỗ, làm theo kiểu bức bàn. Kết cấu khung xương được giữ vững bởi nhiều cột cái, cột quân to và cao, đều thuộc loại gỗ tứ thiết.
Ngõ Đình Đại — phố Bạch Mai. Panorama ©2012 NCCong
Lưu ý
Các mảng trang trí được tập trung vào bức cốn nách giữa toà đại đình. Đề tài trang trí là rồng leo và uốn khúc, vây cá, trăng sao… mang dáng dấp nghệ thuật thời Lê trung hưng. Bên cạnh có những bức chạm khắc rồng phượng, âm dương tương xứng với những hoạ tiết sông, nước, mây trời, những bức cửa võng, cuốn thư, hoành phi, câu đối… Tất cả đều được chạm khắc tỉ mỉ và sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Gian chính giữa phần cung cấm có sập thờ, phía trên đặt ngai của đức Thành hoàng. Bên cạnh đó là 2 chiếc kiệu bát cống cổ đều vẫn nguyên vẹn. Những chiếc kiệu này được chạm, khắc và sơn son thếp vàng với rất nhiều hoa văn sinh động duyên dáng, tiêu biểu của nghệ thuật đời Gia Long. Đình hiện còn 4 bát hương, trong đó có một chiếc làm bằng đá, một bộ bát bửu, một cồng, một chiêng, 3 chiếc hương án và hai hòm đựng 7 sắc phong ghi niên hiệu từ đời Minh Mạng (1821) đến Khải Định (1924), ngoài 2 tấm bia đá mang niên hiệu đời Lê Vĩnh Thịnh (1705) và thời Nguyễn…
Đình cũng lưu giữ được 7 bức hoành phi, cuốn thư, 7 đôi câu đối. Một trong các câu đối ca ngợi thần Cao Sơn như sau (dịch nghĩa):
Danh truyền văn đức võ công, dòng trôi đá không chuyển
Ơn nhuần cây xưa hoa mới, đường nảy xuân lại về.
Danh truyền văn đức võ công, dòng trôi đá không chuyển
Ơn nhuần cây xưa hoa mới, đường nảy xuân lại về.
Đình Đại là một địa điểm trong quần thể di tích lịch sử văn hoá và du lịch có giá trị của quận Hai Bà Trưng. Nhưng cũng như số phận của một số di tích khác, Đình Đại hiện nay vẫn chưa được sự chú ý xứng đáng. Một số hộ dân đã dần lấn chiếm, xâm phạm khuôn viên đình và xung quanh. Cổng tam quan, cổ thụ, vườn hoa, giếng bầu dục… không còn nữa làm cho cảnh quan của Đình Đại bị thu hẹp.
Di tích lân cận
- Chùa Chân Tiên (Phúc Lâm tự): số 151 phố Bà Triệu, phường Lê Đại Hành.
- Chùa Liên Phái: ngõ Chùa Liên Phái, phố Bạch Mai, phường Cầu Dền.
- Chùa Linh Sơn: số 331 phố Trần Khát Chân, phường Thanh Nhàn.
- Chùa Vua (Đế Thích quán): số 33 phố Thịnh Yên, phường Phố Huế.
- Đền Đồng Nhân: số 12 phố Hương Viên, phường Đồng Nhân.
- Đền, đình Đông Hạ: số 30 ngõ Huế, phường Ngô Thì Nhậm.
Chú thích
[1] Lý Khắc Cung, Hà Nội—Văn hóa và Phong Tục, NXB Thanh Niên 2004.
[2] Đàn Nam Giao ở cạnh nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo cũ, nay là toà nhà Vincom.
[2] Đàn Nam Giao ở cạnh nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo cũ, nay là toà nhà Vincom.
Bài và ảnh: Đông Tỉnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét