Chùa Phước Tường: Di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo
(PGVN) Chùa Phước Tường là di tích lich sử văn hóa cấp quốc gia, được Bộ Văn
Hóa Thông tin công nhận cấp bằng ngày 27/7/1993 và công nhận là Di Tích
kiến trúc nghệ thuật theo quyết định VH/QĐ 43 ngày 7/1/1993.
Phước Tường là một ngôi
chùa cổ của TP. Hồ Chí Minh, chùa tọa lạc ở đường 102, KP7, P. Tăng
Nhơn Phú A, Q9, Tp.HCM. Chùa theo hệ phái Bắc tông. Chùa Phước Tường do
thiền sư Linh Quang – Phật chiếu (1736-1788), đời thứ 35 thiền phái Lâm
Tế khai sơn. Ngài là đệ tử Hòa thượng Thành Nhạc - Ấn Sơn, pháp tôn của
Hòa thượng Nguyên Thiều – Thọ Tông. Chùa Phước Tường Được khai sơn vào
năm 1741. Nhưng theo lời các bô lão thì ngôi chùa bấy giờ ở gần chợ Nhỏ
(Tăng Nhơn Phú), cách địa điểm hiện nay khá xa. Sau khi Tổ khai sơn
tịch, đệ tử là Tổ Thuận – Đức Ấn kế thế, rồi tiếp tục sư đệ là Tổ Chơn –
Phước Quang từ chùa Phước Hưng đến thay. Hòa thượng Phước Quang có 2 đệ
tử là Thiền sư Tiên Hiền – Từ Minh (Diệu Minh).
Đến năm Giáp Ngọ (1834) đời Minh Mạng,
trụ trì đời thứ tư là Từ Minh, dời chùa đến địa điểm hiện nay, tái
thiết quy mô. Sau Thiền sư Tiên Hiền, trụ trì chùa Phước Tường là Thiền
sư Minh Huệ - Thắng Phước, Như Tần – Phước Huệ, Kiểu Lượng – Tâm Thọ.
Đến đầu thế kỷ thứ XX, trụ trì chùa là Thích Hóa Thông. Đại sư là một tu
sĩ có khí chất của một hào kiệt, tham gia phong trào Thiên Địa Hội
(1913-1916) nên bị bắt tù đầy, hy sinh. Chùa Phước Tường do không có trụ
trì bị suy sụp. Mãi đến 5, 6 năm sau, bổn đạo mới thỉnh Hòa thượng
Thích Pháp Ấn về trụ trì. Hòa thượng Thích Pháp Ấn là đệ tử của Hòa
thượng Minh Phương – Chơn Hương ở chùa Linh Nguyên (Đức Hòa) đã trùng tu
chùa Phước Tường năm 1930.
Sau khi Hòa thượng Thích Pháp Ấn tịch,
đệ tử Hồng Diệp – Bửu Ngọc kế thế ngài đã trùng tu chùa Phước Tường năm
1950, xây dựng một số công trình phụ năm 1990. Trụ trì chùa Phứơc Tường
hiện nay là ĐĐ Thích Nhựt An, đệ tử Hòa thượng Thích Bửu Ngọc.
Chùa Phước Tường hiện nay nằm trên khu
đất khá rộng, gần 3ha, ngôi chùa nép mình dưới nhiều cây cổ thụ rậm như
một khu rừng. Từ ngoài cỗng bước vào nhìn qua bên phải là một khu đất
rộng dành cho rừng cây. Giữa cảnh ấy lại điểm thêm một vài ngôi tháp,
một vài ngôi mộ cổ rêu phong thì không đâu sánh bằng. Quả là sơn lâm hóa
thành thị, thành thị hóa sơn lâm.
Cổng tam quan của chùa quay về hướng
bắc. Trước đây chùa Phước Tường ở trên khu đất rộng không rào, không
cổng. Mãi đến năm 1990, Hòa thượng Thích Bửu Ngọc mới xây một chiếc cổng
hình cổ lâu hai bên có một đoạn rào ngắn, vẫn còn trống trước trống
sau. Cho đến nay, chùa đã được xây lại cổng tam quan và xây rào hoàn
chỉnh.
Chùa được xây dựng theo chữ L ngược,
có trục chính và trục phụ. Trục chính là một tập thể qui mô. Kiến trúc
bao gồm: chánh điện, tổ đường, giảng đường, sân thiên tĩnh, tăng đường.
Trục phụ gồm Đông lan nằm bên trái trục chính.
Quy mô chùa Phước Tường hiện nay, tuy
được trùng tu vào năm 1930, nhưng vẫn còn giữ được nét truyền thống.
Chùa có 3 nóc xếp đọi theo hình chữ “khẩu” . Phía trước là tiền điện,
một ngôi nhà ba gian hai chái; giữa là chánh điện, sau là giảng đường,
sau rốt là nhà Giám Trai và nhà kho. Các công trình này đều bằng gỗ quý,
mái ngói âm dương, rêu phong cổ kính. Đa số các công trình này đều
thiết kế theo qui mô hình nhà tứ trụ, trừ các công trình phía phía sau,
không cần thiết. Trước đây, vách chùa và cữa chùa đều bằng gỗ và cữa
chùa đều bằng gỗ, mái ngói âm dương nhiều lớp, nên nội điện mát mẻ.
Nhưng càng về sau, theo khuynh hướng chung của xã hội, vách ván được
thay thế bằng vách gạch kiên cố, gỗ được sơn son, đẹp mắt hơn trước.
Tiền điện có bố trí tượng Hộ Pháp. Tại
đây có thờ Hộ pháp Di Đà (giữa), hai bên là Thiện hữu, Ác Hữu. Đại Hùng
Bảo Điện tức là chánh điện rộng rãi. Bàn thờ chính thờ Tam Thế Phật
(quá khứ, hiện tại, vị lai), bộ tượng bằng gỗ, thếp vàng. Cũng tại bàn
thờ này còn có thờ Di Đà Tam Tôn (Di Đà, Quan Âm, Đại Thế Chí), Thích Ca
thành đạo (phong cách Khmer), Tất Đạt Đa giáng thế, Di Lặc, Kim Cương,
kể cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu.
Xung quanh chánh điện là bàn thờ Thập
Điện Minh Vương, Quan Thánh Đế Quân, Phật Dược Sư, Long Vương,… Trên có
tấm hoành phi khắc bốn chữ “Thôi tà phụ chính” (Đuối tà giúp chính).
Chùa Phước Tường cũng như các chùa ở
Nam Nộ đều bày trí theo công thức “Tiền Phật hậu Tổ”. Thế nên, phía sau
bàn thờ chánh điện là bàn thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma và 10 vị cao
tăng đã trụ trì chùa. Tượng Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma chùa Phước Tường bàng gỗ,
đã được Việt Hóa nhân chủng. Theo các nhà nghiên cứu, pho tượng này
trước kia thờ bên phải bàn thờ chính, gần đây được đưa ra phía sau, để
thay thế vào đó là tượng Long Vương,… Nơi đây có bức hoành phi và những
câu đối hàng trăm năm tuổi.
Trước bàn thờ Tổ sư tiền bối là bàn
thờ Chuẩn Đề Vương. Hai bên là bàn thờ Thập Phương bổn đạo quá vãng, mà
lúc sinh thời họ thường đến thăm chùa. Giảng đường( tức Bác Nhã đường)
là ngôi nhà khá rộng. Giữa là tượng Chuẩn Đề Vương, vị Bồ Tát Mật Tông
có 3 mắt, 18 tay. Phía sau là quá đường (nơi tổ chức trai tăng), hai bên
là hai bộ phản, dùng làm nơi bày tiệc chay đãi chư tăng hoặc đãi khách
quý. Giảng đường là nơi học tập của của chư tăng chùa.
Sau giảng đường là sân Thiên tĩnh, nơi
đây giống như một cái giếng trời, ở dưới có Hòn non bộ, trên là khoảng
trống giữa bốn bên mái ngói. Nơi đây nước chảy róc rách, thỉnh thoảng có
vài tiếng chim kêu, giữa một không gian với những mái ngói rêu phong,
lại thêm vào đó là những cặp liễn đối, bức hoành phi làm cho nơi đây đậm
chất cổ kính thật không đâu sánh bằng.
Tiếp sau sân Thiên tĩnh là nhà Giám
Trai. Nơi đây có bàn thờ Mẹ sanh – Mẹ Độ (bộ tượng có 7 nữ thần chính và
2 nữ thần bồng con đứng hầu). Tương truyền các vị nữ thần này rất
thiêng, những gia đình hiếm muộn hoặc sinh con khó nuôi đều đến đây cầu
khẩn. Đặc biệt, tại bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Độ còn thờ một bức tượng nữ
thần bằng sa thạch, có từ đời Phù Nam. Bức tượng này tìm được trong
khuôn viên chùa Phước Tường, đào thấy trong lòng đất, khi đốn một cây cổ
thụ, cách nay khá lâu. Vị thần này búi tóc trên đỉnh đầu có trang sức,
mắt lộ, môi mỏng. Đối diện bàn thờ Mẹ sanh – Mẹ độ là bàn thờ Quan Âm
Thị Kính bồng con (đứng), và tượng Giám Trai sứ giả Bồ Tát. Tương truyền
ông Giám Trai là một nông dân chất phát, chỉ có sáu chữ “Nam mô A Di Đà
Phật” mà cũng không thuộc nổi. Thế nhưng với lòng chân thật, siêng năng
công quả mà ông đã thành một vị hộ trì ngôi Tam Bảo.
Đặc biệt hai bàn thờ này được tương
truyền là cho xăm rất linh. Khách thập phương đến đây xin xăm rất nhiều,
để biết được điềm kiết hung cho mình. Sau nhà giám trai là nhà bếp,
công trình phụ, nhà kho. Bên tây nhà Giám Trai là Hội trường, nơi các
giảng sư giảng dạy Phật học cho Phật tử. Hiện nay nhà chùa xây dựng thêm
nhà Tịnh Độ đạo tràng để phục vụ cho Phật tử tu học trong các khóa tu
Phật thất.
Hiện nay chùa Phước Tường có 53 pho
tượng, 13 bức hoành phi, câu đối và nhiều bao lam, thần vọng, bài vị.
Bao lam chùa Phước Tường chạm trong khoảng năm 1921, lấy đề tài tứ linh,
chim hạc và cây tùng, chim trĩ và hoa mẫu đơn, chim phượng và hoa sen…
Tượng thờ có nhiều loại. Có tượng bằng đá, bằng đất, nhiều nhất là bằng
gỗ. Một số tương gỗ ở chùa tạc vào đầu thế kỷ XIX, còn nét thô phát
nhưng có giá trị lớn của cổ vật niên đại hàng trăm năm. Chùa Phước Tường
đặc biệt còn có nhiều câu đối văn hay, chữ đẹp, chạm trổ tinh xảo, sơn
son thếp vàng rực rỡ. Có ba câu đối quán thủ hai chữ “Phước Tường”:
Nội dung câu đối này bày tỏ quan niệm
đại đức theo quan niệm Tam giáo đồng nguyên. Đặc biệt, nếu viết chữ Hán,
thì câu “ Hiệu uông nhương, cần miễn lễ, động cù lao” đều có bộ “lực”.
Câu “Chí trung thứ, niệm từ bi, tư cảm ứng” đều có bộ “tâm”.
Nếu gọi là cổ tự đúng nghĩa trên đất Sài Gòn, có lẽ chỉ còn duy nhất một ngôi chùa tọa lạc tại làng Tăng Nhơn Phú (nay là phường Tăng Nhơn Phú thuộc Q.9). Chùa không lớn nằm trên mảnh đất rộng đến 3 hécta, chung quanh cây xanh mát rượi khiến chúng sinh đến đây đều cảm thấy thư thái nhẹ nhàng. Tuy trải qua nhiều lần trùng tu, chùa vẫn giữ được nét kiến trúc nguyên thủy với chánh điện ba gian hai chái và phòng tăng ni kết nối với nhau theo hình chữ L ngược, một kiểu công trình kiến trúc Phật giáo phổ biến ở Sài Gòn vào thế kỷ XVIII và XIX.
Chùa Phước Tường gần ba trăm năm tuổi. Ảnh: TuanPQ
Chùa theo hệ phái Bắc Tông, do thiền sư Linh Quang – Phật Chiếu, đời thứ 35 thiền phái Lâm Tế khai sơn. Chùa được cất vào năm 1741, khi ấy được dựng lên gần Chợ Nhỏ nhưng về sau (năm 1834) di chuyển cất lại ở một địa điểm khác cách đó khá xa, tuy cùng trên đất làng Tăng Nhơn Phú, Thủ Ðức.
Về lịch sử cất chùa, lưu truyền một huyền thoại: Khi xưa vùng đất này là một vùng đất hoang, cây cối um tùm và nhiều thú dữ. Nhà cửa thưa thớt, cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn trên vùng đất mới. Chùa được dân làng chung sức dựng lên để có chỗ dựa tinh thần tín ngưỡng. Vào một đêm nọ, có một con hổ đi ngang chùa nhìn thấy tượng ông Hộ Pháp đứng trước sân chùa, hổ lao tới vồ lấy. Sáng ra, các vị Tăng trong chùa thấy xác hổ nằm chết cạnh pho tượng bị gãy mất một cánh tay. Các Tăng sĩ bèn đem xác hổ ra sau vườn chùa chôn cất, còn tượng Hộ Pháp thì chôn trong sân chùa rồi xây tháp. Từ đó trên sân chùa có một ngôi tháp, dân làng thường xuyên cúng bái, cầu xin mọi chuyện tốt lành, tai qua nạn khỏi đều được linh ứng. Từ đó chúng sinh, Phật tử xa gần thường xuyên đến chùa cúng bái.
Chánh điện chùa cất theo kiểu nhà gỗ truyền thống ba gian hai chái, có 3 nóc xếp theo hình chữ “khẩu”. Phía trước là tiền điện, một ngôi nhà ba gian hai chái; giữa là chánh điện, sau là giảng đường, sau rốt là nhà Giám Trai và nhà kho. Vào khoảng thời gian đầu thế kỷ 20, các hàng cột hiên và vách được thay thế bằng cột gạch và vách xây gạch, tô ô dước. Trên nóc mái đặt cặp long chầu nguyệt làm bằng gốm men xanh Lái Thiêu, mái âm dương rêu phong cổ kính. Cách trang trí ngoại thất tiết điệu dễ khiến người từ xa đến ngỡ đó là một ngôi nhà dân gian hơn là một ngôi chùa đã có tuổi đời gần ba trăm tuổi.
Vào khoảng thời gian này, trụ trì chùa là Ðại sư Thích Hóa Thông. Là người tu hành nhưng Ðại sư lại có khí chất của một hào kiệt, tham gia phong trào Thiên Ðịa Hội (1913-1916) nên bị bắt tù đày. Xin nói thêm, Thiên Ðịa Hội là một hội kín hoạt động tự phát ở Nam Kỳ do Phan Xích Long lãnh đạo nhằm chống thực dân Pháp, tiếp theo sau phong trào Minh Tân do Trần Chánh Chiếu đứng đầu, với ý muốn mở mang công thương cho nước nhà. Ðại sư Thích Hoá Thông tham gia cùng các chí sĩ tấn công Sài Gòn năm 1916, cuộc nổi dậy thất bại, tòa án Pháp cho xử tử tại Ðồng Tập Trận tổng cộng 57 người.
Khu Tháp mộ rêu phong. Ảnh: Panoramio
Do chùa lúc ấy không có trụ trì nên bị suy sụp. Mãi đến năm sáu năm sau, mới thỉnh Hòa thượng Thích Pháp Ấn về trụ trì. Hòa thượng Thích Pháp Ấn là đệ tử của Hòa thượng Minh Phương – Chơn Hương ở chùa Linh Nguyên (Ðức Hòa). Năm 1930, Hòa thượng đã cho trùng tu chùa Phước Tường và hiện trạng còn tồn tại đến hiện nay.
Từ ngoài cổng bước vào nhìn qua bên phải là một khu đất rộng dành cho rừng cây. Giữa cảnh ấy lại điểm thêm một vài ngôi tháp, một vài ngôi mộ cổ rêu phong thì không đâu sánh bằng. Quả là sơn lâm hóa thành thị, thành thị hóa sơn lâm. Chùa Phước Tường đến nay vẫn còn giữ được vẻ nguyên thủy, bên trong đều làm bằng gỗ quý, thiết kế theo kiểu nhà tứ trụ, trừ các gian chái phía sau.
Tiền điện chùa có đặt tượng Hộ Pháp, Kim cang và các bao lam được chạm theo đề tài tùng hạc. Tác phẩm điêu khắc độc đáo có giá trị lịch sử là bức hoành phi treo ở tiền điện mang dòng chữ “Phước Tường Tự” có niên đại từ đời vua Minh Mạng 1834. Tiếp nối tiền điện là chánh điện. Chánh điện là khu vực thờ cúng và được trưng bày khá nhiều tượng Phật cổ. Chính giữa chính điện là một bao lam lớn, rất đẹp được chạm tứ linh: Long – Lân – Quy – Phụng.
Trước chánh điện có hàng cột chạm khắc thân hình rồng vàng uốn lượn theo những câu đối sơn son thếp vàng. Chùa Phước Tường cũng như các chùa ở trong Nam đều bài trí theo công thức “Tiền Phật hậu Tổ”. Thế nên, phía sau bàn thờ chánh điện là bàn thờ Tổ, thờ Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma và các vị cao tăng đã trụ trì chùa. Tượng Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma chùa Phước Tường bằng gỗ, đã được Việt hóa nhân chủng. Theo các nhà nghiên cứu, pho tượng này trước kia thờ bên phải bàn thờ chính, gần đây được đưa ra phía sau, để thay thế vào đó là tượng Long Vương,… Nơi đây có bức hoành phi và những câu đối hàng trăm năm tuổi. “PHƯỚC chỉ trùng hưng bổn tự viên thành đa tín thí / TƯỜNG cơ tái tạo dã tri mỹ lệ thiện công phu” hay “PHƯỚC hải hồng thâm bửu phiệt độ thông thiên giới ngoại / TƯỜNG vân ái đãi quý hào phổ ích vạn nhân gian”.
Theo biên khảo của giáo sư Trương Ngọc Tường, hiện nay Chùa Phước Tường có 53 pho tượng, 13 bức hoành phi, câu đối và nhiều bao lam, thần vọng, bài vị. Tượng thờ có nhiều loại. Có tượng bằng đá, bằng đất, nhiều nhất là bằng gỗ. Một số tượng gỗ ở chùa tạc vào đầu thế kỷ XIX, còn nét thô sơ nhưng có giá trị lớn của cổ vật niên đại hàng trăm năm.
Chùa Phước Tường nhìn từ mặt hông. Ảnh: Phạm Hoài Nhân
Trước bàn thờ Tổ sư tiền bối là bàn thờ Chuẩn Ðề Vương. Hai bên là bàn thờ Thập Phương bổn đạo quá vãng, mà lúc sinh thời họ thường đến thăm chùa. Giảng đường (tức Bát Nhã đường) là ngôi nhà khá rộng. Giữa là tượng Chuẩn Ðề Vương, vị Bồ Tát Mật Tông có 3 mắt, 18 tay. Phía sau là quá đường (nơi tổ chức Trai Tăng), hai bên là hai bộ phản, dùng làm nơi bày tiệc chay đãi chư Tăng hoặc đãi khách quý. Giảng đường là nơi học tập của chư Tăng chùa.
Sau giảng đường là sân Thiên tỉnh, nơi đây giống như một cái giếng trời, ở dưới có Hòn non bộ, trên là khoảng trống giữa bốn bên mái ngói. Nơi đây nước chảy róc rách, thỉnh thoảng có vài tiếng chim kêu, giữa một không gian với những mái ngói rêu phong.
Tiếp sau sân Thiên tĩnh là nhà Giám Trai. Nơi đây có bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Ðộ (bộ tượng có 7 nữ thần chính và 2 nữ thần bồng con đứng hầu). Tương truyền các vị nữ thần này rất thiêng, những gia đình hiếm muộn hoặc sinh con khó nuôi đều đến đây cầu khẩn. Ðặc biệt, tại bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Ðộ còn thờ một bức tượng nữ thần bằng sa thạch, có từ đời Phù Nam. Bức tượng này tìm được trong khuôn viên chùa Phước Tường, đào thấy trong lòng đất, khi đốn một cây cổ thụ cách nay khá lâu. Vị thần này búi tóc trên đỉnh đầu có trang sức, mắt lộ, môi mỏng. Ðối diện bàn thờ Mẹ Sanh – Mẹ Ðộ là bàn thờ Quan Âm Thị Kính bồng con (đứng), và tượng Giám Trai sứ giả Bồ Tát. Tương truyền ông Giám Trai là một nông dân chất phác, chỉ có sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật” mà cũng không thuộc nổi. Thế nhưng với lòng chân thật, siêng năng công quả mà ông đã thành một vị hộ trì ngôi Tam Bảo.
Ðặc biệt hai bàn thờ này được tương truyền là cho xăm rất linh. Cho nên vào những ngày rằm, lễ Tết, dân chúng khắp nơi thường viếng chùa rất đông để biết điềm hung kiết.
Chùa Phước Tường từ khi thành lập đến nay trải qua mười đời trụ trì, kiến trúc hầu như còn được nguyên vẹn xứng đáng được xếp là di tích lịch sử văn hóa và nghệ thuật kiến trúc cấp quốc gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét