(PGVN) Ni trưởng Như Hải cho biết, năm 1974 khi bà về trụ trì, chùa đã xuống cấp nghiêm trọng vì trước đó mấy năm, do chính quyền Lon Nol đàn áp, nhiều Việt kiều chạy về quê lánh nạn đã đến chùa căng lều tạm ở nhờ. Rồi năm 1978 - 1979, bọn diệt chủng Pôn Pốt tràn sang Hà Tiên
Tọa lạc tại số 75 đường
Phương Thành, TX.Hà Tiên (Kiên Giang), Sắc tứ Tam Bảo là một trong những
ngôi chùa xưa nhất ở Hà Tiên. Đây là ngôi chùa do Tổng binh Mạc Cửu xây
dựng để thân mẫu của ông là Thái Thái phu nhân tu hành trong những năm
cuối đời.
Theo sách Lược sử những ngôi chùa ở
Kiên Giang thì chùa Tam Bảo được xây dựng vào năm 1730. Thời Tao đàn
Chiêu Anh các, tiếng chuông chùa là nguồn cảm hứng để Mạc Thiên Tích
sáng tác bài thơ Tiêu tự thần chung. Nhưng lịch sử ngôi chùa qua nhiều
thăng trầm, biến đổi nên cũng còn những điều chưa rõ.
Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo
Căn cứ bài thơ Tiêu tự thần chung của
Mạc Thiên Tích, ni trưởng Như Hải, trụ trì Sắc tứ Tam Bảo, giải thích
rằng “Tiêu tự” là nơi tu hành tĩnh mịch, “thần chung” là tiếng chuông
thỉnh buổi sáng và suy luận ngôi chùa xưa ở sát công thự (của Tổng binh
Mạc Cửu). Cách giải thích này khá gần với thông tin mà nhà nghiên cứu
Trương Minh Đạt cung cấp cho chúng tôi: “Thời Mạc Cửu làm Tổng binh trấn
Hà Tiên, nơi ngôi chùa tọa lạc hiện nay vốn là Trấn thượng/dinh cơ của
Mạc Cửu, phía sau hậu liêu ông có cất một gian phòng cho mẫu thân ông tu
hành. Vào năm 1718, Hà Tiên bị quân Xiêm tấn công. Bấy giờ bà Mạc Cửu
chạy nạn qua Lủng Kỳ và hạ sinh Mạc Thiên Tích”.
Đến giai đoạn Mạc Thiên Tích kế vị
cha, ngôi chùa cổ có lẽ vẫn nằm trong khu vực Trấn thượng. Năm 1771, vua
Xiêm PhyaTak Sin (Trịnh Tân) lại đem quân sang tấn công Hà Tiên, đánh
bại Mạc Thiên Tích. Lần này ông chạy sang Cà Mau trong khi Hà Tiên gần
như bị san bằng. Trấn thượng vì vậy cũng không còn tồn tại và ngôi chùa
cũng trở thành phế tích, mặc dù người Xiêm sùng đạo Phật và không có
hành vi phá chùa.
| Chùa Sắc tứ Tam Bảo ở Hà Tiên - Ảnh: H.P |
Ông Trương Minh Đạt còn cho biết ông
sưu tầm được một tấm bản đồ do người Pháp vẽ năm 1869, tức 3 năm sau khi
thực dân Pháp xua quân chiếm nốt các tỉnh miền Tây Nam kỳ và thôn tính
đất Hà Tiên, trong đó địa điểm chùa Tam Bảo hiện nay vẫn ghi trên bản đồ
là phế tích. Cũng theo ông Đạt, chùa Sắc tứ Tam Bảo được khởi công xây
dựng lại khoảng năm 1920 trở về sau và đến khoảng năm 1935 mới hoàn
thành. Giai đoạn này hòa thượng Hồng Chức Phước Ân, dòng Lâm tế chánh
tông đời thứ 40 vận động phật tử góp công, góp của tu bổ. Đến khoảng 5
năm sau thì Sắc tứ Tam Bảo trở thành ngôi chùa quy mô tráng lệ.
Từ đó đến nay, chùa đã được trùng tu
nhiều lần. Song điều đáng quý là phế tích bức tường thành được xem là
dấu vết của Trấn thành thời Tổng binh Mạc Cửu hiện vẫn còn gìn giữ.
Chiếc đại hồng chung
Hiện nay, trong khuôn viên chùa Sắc tứ
Tam Bảo còn hai tháp lớn: một là của hòa thượng Ấn Trừng, hai là của
hòa thượng Phước Ân. Hòa thượng Phật Hội - Ấn Trừng đời thứ 35 Lâm tế
chánh tông (theo dòng kệ Đạo bổn nguyên thành phật tổ tiên) là vị trụ
trì đầu tiên của ngôi chùa xưa.
Tương truyền, đêm nọ mẹ của quan Tổng
binh Mạc Cửu nằm mộng thấy con rồng vàng ngậm cành hoa sen quấn trên cột
buồm chiếc ghe thương hồ từ hướng bắc đến. Hôm sau bà thuật lại cho Mạc
Cửu nghe. Ít lâu sau có một vị tu sĩ tướng mạo bất phàm đến xin diện
kiến. Khi hỏi ra mới biết ông là một danh tướng của nhà Minh, vì không
phục nhà Thanh nên rời bỏ quê hương sang Nam triều rồi chán cảnh thế
nhân xuất gia theo Phật, được pháp hiệu là Ấn Trừng. Nghe xong, ngài
tổng binh thấy ứng với điềm báo mộng của mẹ bèn lưu ông lại trấn phủ
truyền giáo quy giới cho mẹ tu hành. Một số bài viết giới thiệu về Sắc
tứ Tam Bảo tự còn ghi rằng, tu hành được một thời gian, Thái bà bà (mẫu
thân Mạc Cửu) tọa hóa trước Phật đài. Ngài Mạc Cửu cho đúc kim thân của
mẹ để thờ, đúc một đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng
niệm mẹ hiền.
Tuy nhiên, theo ni trưởng Như Hải thì
Thái bà bà vãng sanh ngay lúc làm lễ xuất gia tại chánh điện và hiện
trong chùa cũng không có (tượng) kim thân của bà. Chỉ có bài vị thờ mà
các nhà nghiên cứu cho rằng bút tích của Mạc Thiên Tích và ngôi mộ của
bà ở phía sau chùa. Cách đây mấy năm, hậu duệ họ Mạc ở Cà Mau đã qua đây
trùng tu xây tháp, còn trước đó thì chỉ là ngôi mộ bình thường. Trong
chùa nay chỉ còn lưu giữ bức kim thân A Di đà do Tổng binh Mạc Cửu mang
từ Trung Quốc sang. Nhưng bức tượng hiện đã sơn phết nhiều lớp, khó xác
định. Riêng chiếc đại hồng chung được người đời truyền tụng là chiếc
chuông mà Tổng trấn Mạc Thiên Tích cảm tác qua bài thơ nổi tiếng Tiêu tự
thần chung được đúc vào thời Minh Mạng.
Liên quan đến các dữ kiện trên, ông
Trương Minh Đạt cho rằng Hà Tiên là vùng đất giặc giã liên miên, Trấn
thành bị phá nhiều lần, cho nên di vật người xưa khó tồn tại. Bức tượng
kim thân A Di đà hiện nay cũng có thể là bức tượng của ngôi chùa cũ được
tìm thấy sau này, song chưa có tư liệu nào nói đây là bức tượng của ông
Mạc Cửu mang từ Trung Quốc sang hay do ông đúc tại Hà Tiên. Họ Mạc từng
đúc tiền riêng thì khả năng đúc tượng không phải không thực hiện được.
Riêng về chiếc đại hồng chung, chữ khắc trên chuông quá mờ khó đọc,
nhưng theo tư liệu ông có được thì đây là chiếc chuông do hai vợ chồng
phật tử hiến cúng vào khoảng năm 1890. Hòa thượng Hoằng Nghĩa hiện còn
mộ ở chùa Giác Viên, đã được mời đến làm lễ chứng minh cho chiếc đại
hồng chung này. Do đó, không thể nói chiếc chuông được đúc vào thời Minh
Mạng. Chiếc chuông trong “Tiêu tự thần chung” một thời âm vang có thể
đã bị hủy hoại trong lúc quân Xiêm chiếm đóng Hà Tiên.
Sắc tứ Tam Bảo tự nổi tiếng với Tiêu
tự thần chung còn chịu đựng những biến cố thời cuộc về sau. Ni trưởng
Như Hải cho biết, năm 1974 khi bà về trụ trì, chùa đã xuống cấp nghiêm
trọng vì trước đó mấy năm, do chính quyền Lon Nol đàn áp, nhiều Việt
kiều chạy về quê lánh nạn đã đến chùa căng lều tạm ở nhờ. Rồi năm 1978 -
1979, bọn diệt chủng Pôn Pốt tràn sang Hà Tiên bắn giết dân lành, ni sư
lại tiếp tục bỏ chùa chạy lên Bãi Ớt lánh nạn.
Ngọc Phan - Hoàng Phương (Báo Thanh Niên)
Ngọc Phan - Hoàng Phương (Báo Thanh Niên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét