Giới thiệu
Từ ô Cầu Giấy của Hà Nội bạn đi về hướng tây theo đường quốc lộ QL32 chừng 40km sẽ tới một nút giao thông với quốc lộ QL21 ở bên trái. Cũng đừng vào trung tâm thị xã Sơn Tây mà tiếp tục bám theo QL32 hơn 4km bạn sẽ thấy một vòng xoay với đường lên cầu Vĩnh Thịnh ở bên phải. Cứ đi thẳng về hướng tây-bắc gần 1km nữa thì một lối rẽ vào thôn Đông Sàng ở bên trái sẽ dẫn bạn đến chùa Mía.
Chùa tọa lạc tại một gò đá ong ngay giữa thôn Đông Sàng của xã Đường Lâm, tuy đất không cao nhưng phong thủy rất tốt. Các cụ già kể rằng trong trận lụt kinh hoàng do vỡ đê sông Hồng năm 1945 những ngôi nhà trên đồi đều không bị ngập. Theo đường làng đi gần tới chợ Mía du khách nhìn rõ từ xa tán cây cổ thụ phía trên mái tam quan chùa và cả đỉnh tháp Cửu phẩm Liên hoa. Tháp này được xây vào nửa cuối thế kỷ 20 để thờ vọng Xá lợi của đức Phật.
Ngay trước tam quan chùa là con đường làng và ngôi chợ Mía. Cổng chùa có bậc lên thềm khá cao. Tầng trên treo một quả chuông đồng nặng 4 tạ, đúc năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) đời vua Lê Hiển Tông và một chiếc khánh đồng, đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) dưới thời Nguyễn. Dân làng cho biết mỗi chiều từng tiếng chuông từ đây ngân xa, bay qua sông Hồng sang đến tận đất Phú Thọ...
Tương truyền chùa Mía có từ rất xa xưa, đến đầu thế kỷ 17 thì cũ hỏng và đổ nát. Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệu[1] là một phi tần của chúa Trịnh Tráng (1632—1657), người gốc làng Nam Nguyễn thuộc tổng Cam Giá, đã trực tiếp kêu gọi thiện nam tín nữ gần xa góp công góp của để trùng tu ngôi chùa. Về sau, dân trong tổng đã tạc tượng bà đặt vào một khám thờ nhỏ trong chùa và gọi là “bà Chúa Mía”
Kiến trúc
Tam quan chùa nhìn về hướng đông-nam, đối diện một ngôi đền nhỏ thờ vọng Bố Cái đại vương ở bên kia đường làng. Tầng dưới có cánh cửa hai bên với trang trí hình chữ “Vạn”; cạnh tường đặt hai tấm bia đá. Bia cổ nhất có niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 3 (1621) đời vua Lê Thần Tông, ghi lại việc lập chợ Mía ở trước chùa. Tấm bia kia dựng năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750), chép việc sửa lại tiền đường.
Chùa Mía làm theo kiểu “Nội công ngoại quốc”. Du khách từ tam quan đi thẳng theo con ngõ ngắn sẽ đến một cái cổng nhỏ mở vào khoảng sân rộng. Giữa sân có hòn non bộ che cho tiền đường được xây trên nền cao 7 bậc. Phía trái tiền đường có tấm bia đá lớn ghi niên hiệu Ðức Long thứ 4 (1632), kể lại việc trùng tu chùa vào thời gian đó. Bia cao 1,8m, rộng 1m, đặt trên lưng một con rùa đá được trang trí bằng các nét chạm nổi trau chuốt xen kẽ giữa rồng và hoa lá.
Sân chùa Mía. Panorama ©2014 NCCong
Tòa tiền đường rộng 7 gian 2 chái rất thoáng đãng. Toà trung đường cũng rộng 7 gian nhưng nối với thiêu hương và hậu cung giật cấp, tạo chiều cao và chiều sâu thâm nghiêm. Cả hai tòa được xây song song theo hình chữ “Nhị”, chỉ cách nhau một chút để lấy ánh sáng tự nhiên cho các bức tượng ở hai bên và trên Phật điện. Phía sau hai pho tượng Hộ Pháp to lớn có cửa ngách dẫn ra hành lang tả hữu rồi thông xuống hậu đường.
Các toà nhà chùa Mía sử dụng nhiều cột gỗ to và cửa bức bàn, đặc trưng cho kiến trúc của thế kỷ 17. Các vì kèo cũng được làm bằng gỗ, chạm khắc rất công phu hình hoa lá và tứ linh (long, ly, quy, phượng)…. Dáng dấp ngôi chùa hiện nay mang phong cách nghệ thuật kiến trúc thời cuối Lê đầu Nguyễn. Trải qua hơn bốn trăm năm ngôi chùa đã được tu tạo nhiều lần, lần sửa lớn cuối cùng được thực hiện vào đầu thiên niên kỷ thứ ba.
Lưu ý
Ngoài các bia đá, quả chuông đồng và chiếc khánh đồng đã nói ở trên, trong chùa Mía còn lưu giữ nhiều hiện vật khác có giá trị nghệ thuật và lịch sử. Hệ thống tượng Phật trong chùa Mía phong phú về số lượng, đặc sắc về hình dáng và biểu tượng. Chùa có đến 287 pho tượng gồm 6 tượng đồng, 107 tượng gỗ và 174 tượng đất, tất cả đều thể hiện nét tài hoa của các nghệ nhân đúc, tạc hoặc đắp tượng vào thời xưa.
Trên thượng điện có bức tượng Thích Ca nhập Niết Bàn tạo dáng đức Phật về cõi hư vô trong sự thanh thản trong sáng. Tượng Di Lặc tô màu sáng thể hiện một vị Bồ Tát tốt bụng và lạc quan. Tượng Tuyết Sơn (cao 0,76m) ở hậu đường mô tả giai đoạn đức Phật gầy trơ xương vì đói khổ tột cùng đang đăm chiêu tìm nguồn gốc của mọi nỗi bất hạnh.
Đáng chú ý còn có bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát vóc dáng thon thả với 12 cánh tay đan lồng vào nhau như đang múa nhịp nhàng. Tám pho tượng Kim Cương cao lớn được làm bằng đất luyện, mỗi pho thể hiện một vị tướng trong tư thế diễn võ với hình khối, bố cục và nét mặt khác nhau v.v..
Trong một động đá ở hậu đường chùa Mía có pho tượng Quan Âm tống tử cao 0,76 m trông rất sống động, được dân gian gọi là tượng Quan Âm Thị Kính bồng con. 18 bức tượng La Hán bày dọc hai dãy hành lang cũng có dáng vẻ đời thường hơn là tu hành, in rất rõ phong cách nghệ thuật dân gian truyền thống của Việt Nam.
Chùa Mía là ngôi chùa cổ có nhiều tượng nhất và một trong những danh lam hàng đầu của Việt Nam, năm 1964 đã được Bộ Văn hoá xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Cùng với những ngôi nhà gỗ mít và tường đá ong trong “Làng cổ Đường Lâm”, chùa Mía hiện nay đã trở thành một trung tâm du lịch tâm linh ở xứ Đoài thu hút được rất nhiều khách trong nước và ngoài nước tìm đến.
Được biết ni cô Đàm Thanh về đây hoằng dương Phật pháp từ năm 1986 đã có công duy trì hiện trạng và tu sửa, mở rộng các công trình. Ni cô còn mở lòng từ bi tiếp nhận các trẻ mồ côi, nuôi khôn lớn và cho đi học. Nhà chùa tự tay chăm sóc khu vườn rau sạch ở phía sau và làm được những chum tương thanh đạm đủ ăn quanh năm cho nhiều người.
Di tích lân cận
- Đền Và: thị xã Sơn Tây.
- Đình Tây Đằng: thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì.
- Làng cổ Đường Lâm: xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây.
- Thành cổ Sơn Tây: thị xã Sơn Tây.
Bản đồ trực tuyến
Chú thích
[1] Có sách ghi là Ngọc Dong hoặc Ngọc Dao. Theo tấm bia khắc năm Đức Long thứ 6 (1634) dựng ở đây, chùa Mía được trùng tu năm 1632 do công của các cung tần phủ chúa là Nguyễn Thị Ngọc Diệu, Nguyễn Thị Ngọc Thạch và phu nhân Ngô Thị Ngọc Loan.
Đông Tỉnh
Ngôi chùa cổ xứ Đoài và câu chuyện bà chúa Mía
ANTD.VN - Chùa ở Hà Nội thì nhiều, nhưng chùa mà giữ nguyên được vẻ cổ kính và kiến trúc thuở ban đầu thì rất hiếm, nhất là không gian xung quanh vẫn gợi được nét truyền thống của làng quê Việt thì đặc biệt hiếm. Chùa Mía ở thị xã Sơn Tây may mắn có được cả hai điều ấy và nó cũng là ngôi cổ tự thuộc loại đặc sắc nhất nhì xứ Đoài xưa.

Hồn cốt làng Việt cổ
Tôi bước vào chùa Mía, ấn tượng đầu tiên là mái chùa thấp lè tè suýt chạm đầu. Các kiến trúc đình, chùa của làng Việt cổ vốn không cao, một phần do kiểu thiết kế đặc trưng, một phần có lẽ để chống chọi với thiên nhiên tàn phá, mái đình chùa thấp thì nguy cơ bị đổ sập, sét đánh giảm đi. Ngày xưa mái chùa Mía thực tế không thấp, nhưng có lẽ do những lần trùng tu, tôn nền móng, nên bây giờ bước vào gian thờ chính như thấy đầu chạm mái. Tôi bỗng có một cảm giác mà lâu lắm rồi mới thấy khi đến các ngôi chùa ở Hà Nội, đó là được đắm mình trong cái không khí nguyên sơ, mộc mạc của thuở ban đầu.
Cái không khí cổ kính ấy, thoạt không để ý thì tưởng dễ tìm, nhưng không phải. Hầu như các ngôi chùa bây giờ đều được tu tạo, xây mới, không gian xưa cũ, hoài cổ là rất hiếm. Chùa Mía thì khác, bước vào trong chùa là có ngay cảm giác bâng khuâng khi lọt vào một không gian lạ lẫm, khác biệt. Vì rằng, đứng trong cái ánh sáng mờ đục bởi hàng mái thấp lè tè, bởi những pho tượng trường tồn hàng trăm năm ủ ê sương khói bỗng thấy mình được bao bọc trong không khí của một làng Việt cổ.
Mà đúng là làng Việt cổ thật. Xã Đường Lâm - nơi có ngôi chùa Mía - vốn là một làng cổ hiếm hoi của miền Bắc còn giữ lại được ít nhiều không gian xưa. Làng quê là nơi tôn vinh những người con ưu tú của quê hương. Tôi vào thăm chùa Mía và biết rằng, cái không gian cổ kính của chùa là đóng góp của một người đàn bà vốn sinh quán ở đất Đường Lâm. Đó là Bà chúa Mía, tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Dao, Vương phi của chúa Trịnh Tráng. Câu chuyện kể về bà mang những nét tương đồng với câu chuyện kể về nguyên phi Ỷ Lan với lần viếng thăm vùng Kinh Bắc của vua Lý Thánh Tông.

Dấu ấn người xưa
Chuyện kể rằng khi chúa Trịnh Tráng kinh lý qua vùng này, tất cả dân chúng đều cung kính dẹp đường chào đón, chỉ có một người con gái dường như không biết đến việc ồn ào ấy, nàng còn bận cắt cỏ. Trong lúc làm việc, cao hứng nàng hát một câu rằng:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang
Nửa lo việc nước nửa toan việc nhà
Nhà chúa lạ vì cái sự khoan thai bình thản của nàng, lại lạ vì câu hát hàm ý sâu xa hơn cái công việc rất đỗi bình thường của người thôn nữ, và có lẽ ngài ngưỡng mộ vẻ đẹp của nàng nữa. Chúa gọi nàng đến hỏi thăm và ghi nhớ việc ấy. Khi hồi phủ, chúa còn nhớ đến một người con gái ở vùng xứ Đoài có dáng vẻ, khuôn mặt, giọng hát ấy. Chúa cho lệnh về đòi Nguyễn Thị Ngọc Dao vào phủ.
Chức sắc Đường Lâm khi nhận được lệnh ấy thì thất kinh, chúa định xử tội người con gái kia vì câu hát kia chăng? Đám lý dịch sợ làm liên lụy tới mình liền ngầm báo cho mẹ con nàng biết và đuổi khỏi làng. Mẹ con Ngọc Dao nghe được tin ấy thì cũng sợ hãi và chạy sang làng khác lánh nạn. Vòng vo của sự hiểu lầm rồi Ngọc Dao cũng được đón vào vương phủ, trở thành vương phi của Trịnh Tráng.
Trong suốt lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam thường có những câu chuyện kiểu như vậy. Ngọc Dao khi trở thành bà chúa thì vẫn không nguôi nhớ quê nhà. Nàng giúp dân nhiều việc như mở rộng bến đò Mía, xây chợ Mía, khuyến khích dân chăn tằm dệt vải, làm các sản vật như chè lam, kẹo bột. Và đặc biệt, khi thấy ngôi chùa trong làng đã đổ nát, vào năm 1632, nàng đã quyên tiền xây dựng thành ngôi chùa khang trang lộng lẫy.
Tôi đi thăm chùa Mía trong hồi tưởng của câu chuyện đó. Những pho tượng cổ, những cột chống rêu mốc, lồi lõm, những hương án khói hương nghi ngút vẫn còn đâu đây “dấu vết” của người con gái xứ Đoài kiêu sa. Sau khi Ngọc Dao mất, người dân trong vùng đã tôn vinh nàng thành “bà chúa Mía” với lòng cảm phục sâu sắc.
Để tưởng nhớ người vợ hiền của mình, chúa Trịnh Tráng đã cho xây một ngôi đền nhỏ trên đúng nền nhà của người xưa. Ngôi đền đó vẫn còn, cũng giữ gần như nguyên vẹn những nét xưa với những trang trí rất nhiều màu sắc rực rỡ đặc trưng. Nơi thờ bà chúa Mía dân làng gọi là đền Phủ. Vào những dịp tuần rằm, rất nhiều dân trong vùng đến dâng hương để xin bà ban ân đức.
Nơi thời gian đọng lại
Chùa Mía sở hữu những di sản mà không phải ngôi chùa cổ nào cũng có được. Đây là ngôi chùa từng được tôn vinh là ngôi chùa có nhiều tượng cổ nghệ thuật nhất nước với 287 pho, bao gồm cả tượng gỗ, tượng đồng, tượng đất luyện. Ở chùa Mía có nhiều pho tượng nổi danh như tượng Tuyết Sơn, tượng Quan âm tống tử, tượng Hộ Pháp, tượng bà chúa Mía... Tôi đến thăm chùa vào một buổi trưa vắng khách, một mình trong ngôi chùa cổ với hàng trăm pho tượng cổ, hàng trăm dáng vẻ, hàng trăm khuôn mặt, một cảm giác rất đặc biệt như đang đối thoại với người xưa với mùi thời gian còn lưu luyến từ hàng trăm năm trước.
Nhưng ngay ngoài khuôn viên chùa có một không gian mở như một cái chợ nhỏ của vùng quê Bắc bộ. Người dân bán rất nhiều nông sản, đặc sản trong vùng. Những nải chuối vàng ruộm, những rổ quả cà chua đỏ rực, những quả mít xù xì bốc mùi thơm phức. Từng thúng, từng thúng chè lam vẫn còn nguyên cả miếng lớn, người bán đợi có người mua mới cắt thành bánh nhỏ, cho vào túi. Như tôi đã nói từ đầu, chùa Mía không những đặc sắc bởi giữ được kiến trúc nguyên sơ mà còn được cộng hưởng một không gian của làng quê Bắc bộ làm cho sự hoài cổ, thanh bình càng trân quý.
Tôi ngồi nghỉ dưới chân một ngọn tháp rêu phong. Ngồi dưới bóng mát của cây cổ thụ, lắng nghe tiếng chim trên vòm lá và nhâm nhi một khúc chè lam mua ngay trong sân chùa để lót dạ, tôi tự hỏi với lòng mình, liệu ta còn gì với thời gian, lòng người có đủ thanh thản, thanh tịnh khi vào thăm nơi trang nghiêm cổ kính này? Nghe tiếng gió xào xạc quét những tiếng lá khô trên sân gạch là thấy tiếng lòng ngẫm ngợi về đời mình những được mất, hay dở, thức tỉnh. Đó chẳng phải những điều thu được mỗi khi đến thăm một nơi thanh tịnh, trang nghiêm đó sao?
Bí mật trong ngôi chùa gần 400 tuổi ở Hà Nội
Nằm cách Hà Nội 45km, chùa Mía nổi tiếng với kiến trúc độc đáo và hệ thống tượng gỗ lớn chạm khắc tinh xảo.

![]() |
Gần gác chuông là tòa bảo tháp Cửu phẩm Liên Hoa, cao 13 m thờ vọng Xá Lợi đức Phật. |
![]() |
Sau cánh cổng gỗ nhuốm màu thời gian, du khách thực sự bước chân vào không gian tĩnh lặng, mát mẻ của chùa. Hai bên lối đi rợp bóng cây xanh, ríu rít tiếng chim ca. |
![]() |
Khoảng sân rộng rãi và khu nhà tiếp khách. |
![]() |
Mái ngói thâm nâu của gian thờ phía sau. |
![]() |
Chùa Mía khá nổi tiếng với các pho tượng nghệ thuật, gồm 287 pho tượng lớn, nhỏ, trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng bằng đất luyện được sơn son thếp vàng. |
![]() |
Ở gian chùa Trung và chùa Hạ có nhiều khối điêu khắc tinh xảo bằng gỗ được làm từ thế kỷ 17. Trải qua thời gian hàng trăm năm, những khối điêu khắc vẫn còn vẹn nguyên nét đẹp. |
![]() |
Du khách nước ngoài đặc biệt thích thú với kiến trúc trong chùa. |
![]() |
Dòng chữ cổ khắc trên cột chùa. |
![]() |
Năm 1993, chùa Mía được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử - văn hóa. |
![]() |
Ở chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp lớn và 8 pho tượng Kim Cương. Mỗi pho tượng là hình tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu. |
![]() |
Không gian chùa Mía với hệ thống cột đỡ bằng gỗ mít nguyên khối. |
Nhật Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét