Bản đồ trực tuyến
Lược sử
Tương truyền chùa được thành lập vào khoảng cuối thế kỷ 6. Theo một số nghiên cứu thì muộn nhất cũng phải từ thời nhà Mạc vì trong chùa hiện còn hai tấm bia đề tên “Tín Thí” ([Bia ghi] công đức) và “Tây Phương Sơn Sùng Phúc Tự Thạch Bi” (Bia đá chùa Sùng Phúc núi Tây Phương) với các hoa văn trang trí mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17. Đáng tiếc các chữ khác đã bị mòn và mặt trong của bia đang áp vào tường hồi toà trung đường nên không xem được nội dung.
Năm 1632 dưới đời vua Lê Thần Tông, chùa được sửa chữa lớn, xây thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Trong khoảng từ năm 1657 đến 1682, chúa Trịnh Tạc cho phá chùa cũ, xây dựng chùa mới và tam quan. Đến năm 1794, chùa được đại tu hoàn toàn, đổi tên là "Tây Phương Cổ Tự", dáng dấp rất giống chùa Kim Liên ở ven Hồ Tây, cũng được đại tu dưới thời Tây Sơn.
Chùa tọa lạc ở độ cao khoảng 50m trên núi Tây Phương, tên khác là núi Câu Lậu, địa thế sơn thủy hữu tình. Với kiến trúc và điêu khắc gỗ độc đáo, chùa được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngay đợt đầu vào năm 1962 rồi công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt (2014) với các tượng Phật là bảo vật quốc gia (2015). Cuối thế kỷ 20 chính quyền đã cho tôn tạo chùa, xây cổng chào và bến xe khách dưới chân núi. Tới đầu thế kỷ 21 lại có thêm một tòa thủy đình khá lớn trên hồ nước bên cạnh con đường rải nhựa từ phía Hữu Bằng, Chàng Sơn dẫn vào thôn Yên.
Kiến trúc
Du khách từ cổng chào dưới chân núi leo hết 239 bậc đá ong thì đến tam quan chùa Tây Phương. Chùa quay mặt về hướng đông, nhìn ra gò Rồng Sông (nay là xóm Đồng Sống) và gò Kim Quy, còn gọi là Núi Rùa. Tam quan xây bằng gạch Bát Tràng để trần không trát vữa, nhìn chung có kích thước khiêm tốn và kiểu cách giản dị, phù hợp với con đường dốc nhỏ dài và quang cảnh nông thôn ở xung quanh.
Sân trước chùa Tây Phương. Panorama ©2014 NCCong
Sau tam quan, bên phải có một ban thờ riêng Đức Ông, bên trái là lối rẽ vào sân sau. Du khách đi thẳng qua hòn non bộ rồi lên thềm bỏ giày trước khi bước vào tiền đường 3 gian 2 dĩ. Chùa chính bao gồm ba nếp nhà song song thành chữ “Tam” trên một nền cùng độ cao, mỗi nếp có 2 tầng 8 mái kiểu chồng diêm. Tường cũng chủ yếu xây bằng gạch Bát Tràng để trần phô màu đỏ mộc mạc và trổ những cửa sổ tròn quét vôi trắng, biểu thị triết lý "sắc sắc không không" của nhà Phật.
Trung đường chỉ rộng 3 gian nhưng cao hơn tiền đường và hậu đường một chút. Giữa chúng là một khoảng giếng trời nhỏ để lấy ánh sáng tự nhiên. Các cột gỗ bên trong chùa đều kê trên chân đế bằng tảng đá xanh chạm khắc hình cánh sen. Mái chùa lợp hai lớp ngói trên những hàng rui gỗ chia ô vuông vắn đều đặn như bàn cờ. Lớp trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới lợp ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc, còn gọi là ngói chiếu.
Xung quanh diềm mái của cả ba toà nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung, có trang trí hình hoa, lá, rồng, phượng. Bên phải chùa chính là sân dài dẫn sang nhà khách và khu phụ. Bên trái là vườn tháp và lối xuống chùa Thanh Am. Phía sau là sân hậu, nhà Tăng và nhà thờ Tổ. Trong khuôn viên có rất nhiều cây xanh và hoa cảnh nhưng không thấy cổ thụ nào thật to cao.
Điêu khắc
Hầu như trong chùa chính, khắp nơi đều có chạm trổ rất tinh xảo. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... được trang trí bằng những đề tài quen thuộc ở miền đồng bằng sông Hồng với hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, hổ phù, tứ linh v.v.. Rất có thể đây là tác phẩm của các nghệ nhân Chàng Sơn ngay trong Tổng Nủa, một làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài.
Sân bên phải chùa Tây Phương. Panorama ©2014 NCCong
Ngoài phần chạm khắc nói trên, còn có 72 pho tượng cùng với các phù điêu được xếp đặt hầu như tại mọi chỗ trong chùa chính và cả trong nhà thờ Tổ. Phần lớn các tượng được tạc bằng gỗ mít rồi thếp vàng hoặc sơn màu để bảo vệ. Rất nhiều nhà chùa khác mới đây đã sao chép các mẫu tượng tuyệt đẹp của chùa Tây Phương. Phần lớn các tượng cao hơn người thật và khá lớn so với kích thước của ngôi chùa này vốn chỉ thuộc loại trung bình. Đặc biệt có những tượng cao đến 3m.
Phía sau pho tượng Thích Ca màu đen, trên bậc cao nhất của thượng điện trong tòa hậu đường chùa Tây Phương có bộ tượng Tam Thế Phật được coi là tác phẩm của đầu thế kỷ 17. Ba pho tượng Phật Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân: Pháp thân, Ứng thân, Hóa thân) ở tư thế tọa thiền trên bệ hoa sen, tất cả đều sơn son thếp vàng. Phía dưới tượng Thích Ca có mười pho tượng Thập Điện Diêm Vương nhỏ hơn ngồi quanh hương án.
Du khách sẽ thấy hai bên Phật điện còn có 16 pho tượng đứng hoặc ngồi trên các bệ bày dọc tường, tất cả được tạo tác khác nhau nhưng đều có vẻ mặt và cử chỉ rất sinh động. Đó là tượng các vị mà dân ta quen gọi là La Hán, mang tên Ấn Độ: Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Bà-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Thương-Na-Hòa-Tu, Mã-Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long-Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa.
Thực ra, theo một tài liệu còn lưu giữ ở chùa Tây Phương thì trong quan niệm của Thiền tông Trung Quốc đây không phải là La Hán (hay A-la-hán, phiên âm từ Phạn ngữ: Arhat, Arahant, bậc thánh hiện thân của sự giác ngộ trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy) mà là các vị Tổ truyền đăng (Tổ trao đèn). Đăng là đèn, ngụ ý ánh sáng giác ngộ đạo Phật mà Tổ trao lại cho người sau. Từ Phật Thích Ca tuần tự truyền cho hai mươi tám vị Tổ người Ấn Độ, sang Trung Hoa truyền tiếp cho sáu vị Tổ Thiền tông và truyền tiếp nữa cho các vị Tổ người Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam...
Trên bậc cao nhất của chính điện trong tòa trung đường thì bài trí bộ Di-đà Tam Tôn, bao gồm tượng Phật A-di-đà, cùng đứng hai bên là Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Dưới bậc thứ hai, có lẽ pho tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật ở thời kỳ ban đầu gây ấn tượng mạnh nhất. Toàn thân Thích Ca chỉ còn da bọc xương do tu khổ hạnh trên núi tuyết theo phái Yoga. Tượng màu đen, khoác áo cà sa mỏng, một chân bó gối chống thẳng cho cổ tay trái hờ hững đặt lên, mắt trũng sâu lim dim trong suy tưởng. Hai bên có tượng các tôn giả A-Nan và Ca-Diếp đứng chắp tay trang nghiêm, chân không đi dép.
Trên bậc thứ ba có tượng Di Lặc cũng màu đen, tạc một vị Phật ngồi hơi ngả về phía sau, tay ôm đầu gối, phanh áo lộ bụng tròn, toàn thân toát ra sự lạc quan, sung sướng. Bên phải là tượng Đại Diệu Tường còn gọi là Văn Thù Bồ Tát ở tư thế đứng chắp tay, chân đi đất bấm ngón xuống mặt bệ. Bên trái Di Lặc là tượng Pháp Hoa Lâm tức Phổ Hiền Bồ Tát giơ một tay trước ngực, khuôn mặt với râu tóc đen nổi rõ trên nước da sáng trông rất khác mẫu tượng mập mạp cưỡi voi quen thuộc.
Hai bên chính điện của các tòa trung đường và tiền đường còn có 8 pho tượng gọi là Bát bộ Kim Cương. Những tác phẩm bằng gỗ sơn này thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép các bộ phận và cách bố cục tạo cảm giác chuyển động mạnh mẽ nhưng chắc chắn của một thân thể cường tráng mang giáp trụ trong các thế võ tự tin. Chi tiết chạm khắc trên quần, áo, khăn, mũ, đai, hia và vũ khí cũng rất tinh tế, đa dạng, cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các đường nét mềm mại và rắn rỏi.
Chùa Tây Phương quả là một trong vài bảo tàng sống của Phật giáo Việt Nam may mắn còn sót lại sau mấy trăm năm đầy biến động và chiến tranh. Ngày ngày nơi đây có rất đông khách du lịch trong nước và quốc tế đến leo núi để vãn cảnh, chiêm ngưỡng các báu vật kiến trúc và điêu khắc cổ truyền của dân tộc ta.
Di tích lân cận
- Chùa Thầy: thôn Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai.
- Chùa Trăm Gian: thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ.
- Chùa Trầm: thôn Long Châu, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ.
- Đình So: làng So, xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai.
Bài và ảnh: Đông Tỉnh
Chuyện quanh những pho tượng La Hán ở Chùa Tây Phương
ANTD.VN - Tôi biết đến chùa Tây Phương lần đầu tiên qua bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” trong bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Huy Cận từ khi là học sinh phổ thông. Rồi khi về Hà Nội, tôi đã cùng lũ bạn sinh viên đạp xe mấy chục cây số về thăm chùa Tây Phương và lần nào cũng ngỡ ngàng trước nét đẹp của ngôi chùa lừng danh này.

Nằm ở vị trí phong thủy đặc biệt
Chùa Tây Phương xây dựng trên một ngọn núi thấp nằm giữa một vùng đồng bằng rộng lớn. Các ngôi chùa Việt Nam thường nằm ở những vị trí cao ráo, một quả đồi nổi lên giữa một vùng đồng bằng là vị trí lý tưởng để xây chùa. Một địa điểm mà ngay một quan cai trị lừng danh thời Hán là Cao Biền đã phải rất để tâm đến nó. Và chính nằm ở vị trí hội tụ khí thiêng của trời đất, Cao Biền đã lo sợ những anh kiệt của nước Việt xuất hiện chống lại sự đô hộ nước ngoài nên đã cho yểm mạch ở nơi này bằng việc xây dựng một ngôi chùa. Như vậy, chùa Tây Phương có một lịch sử rất lâu đời, cả nghìn năm từ thời Bắc thuộc nhưng rất tiếc dấu vết của thời kỳ nguyên sơ đó đã không còn nhưng rõ ràng, chùa Tây Phương nằm ở một vị trí rất đặc biệt theo quan niệm phong thủy của người xưa.
Chùa Tây Phương nằm trên núi Câu Lậu nay thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội. Chùa nằm ở vị trí thoáng, sơn thủy hữu tình, mặt chính chùa quay ra phía Đông nhìn thấy núi Rùa, hướng Tây là sông Tích, hướng Nam là núi Con Voi, hướng Bắc là núi Ba Vì.
Một đặc điểm tôi muốn nhấn mạnh là chùa Tây Phương có lịch sử lâu đời, được tu sửa trùng tu qua nhiều thời kỳ nhưng diện mạo kiến trúc như bây giờ và tên gọi “Tây Phương cổ tự” chính thức có vào thời Tây Sơn. Vì có thể tu sửa trong một thời kỳ nên chùa Tây Phương có cấu trúc khá giống với chùa Kim Liên ở quận Tây Hồ, Hà Nội với kiểu chùa hình chữ tam, ba chùa nằm song song nhau. Triều đại Tây Sơn khá ngắn ngủi nhưng về dấu ấn Phật giáo phía Bắc có thể kể đến hai ngôi chùa nổi tiếng trên và chính danh sỹ thời Tây Sơn là Phan Huy Ích khi về thăm chùa đã có bài thơ rằng:
“Câu Lậu chót vót
Nước chảy quanh vòng
Một ngọn cao ngút
Vụ trị khơi lòng
Đạo gửi ở không
Cội gốc khôn cùng
Lòng người bản thiện
Đời đời thủy chung”.
Thăm các vị La Hán chùa Tây Phương
Tất nhiên nói đến chùa Tây Phương thì nổi tiếng nhất bởi những pho tượng cổ, nhất là nhóm tượng La Hán (thực ra là tượng tổ) và tượng Tuyết Sơn. Rất nhiều người đã đánh giá các pho tượng ở chùa Tây Phương là những pho tượng vào loại đẹp nhất của nghệ thuật tạc tượng Việt Nam thế kỷ XVIII. Ở đây tôi muốn đặc biệt chú ý đến hai pho tượng đặc sắc nhất đó là tượng Tuyết Sơn và tượng tổ La Hầu La Đa.
Tượng Tuyết Sơn thực ra là tượng đức Phật Thích Ca ở giai đoạn ngài ở trên núi tuyết kham khổ, mỗi ngày chỉ ăn một hạt vừng, một hạt kê, hành xác để tìm ra chân lý. Pho tượng tạc người trong dáng ngồi, đen sẫm, mắt trũng sâu, thân hình khô đét, có thể nhìn thấy rõ những xương sườn nhô ra nhưng khuôn mặt vẫn toát ra vẻ đăm chiêu suy tưởng. Đây là giai đoạn tu hành khổ hạnh của Thích Ca vì sau này khi ngài xuống núi, ngồi dưới bóng cây bồ đề và đắc đạo thì ngài có một dáng vẻ gần như khác hoàn toàn. Pho tượng Tuyết Sơn này là một kiệt tác điêu khắc gỗ của chùa Tây Phương cùng với một pho tượng Tuyết Sơn lừng danh khác ở chùa Mía ở Đường Lâm, Sơn Tây.
Pho tượng lừng danh thứ hai ở chùa là tượng tổ La Hầu La Đa. Tuy tạc một vị thiền sư có nguồn gốc Ấn Độ nhưng khuôn mặt tượng có nhiều điểm tương đồng với một người đàn ông bản địa, môi mỏng, gò má cao, một tay cầm gậy, một tay để trên gối mắt hơi lim dim và toát ra vẻ đăm chiêu khổ cực. Đây là một trong những bức tượng có hồn nhất trong nhóm tượng tổ, cũng là một kiệt tác tạo ấn tượng mạnh mẽ cho người chiêm ngưỡng, được tạo tác bởi bàn tay của những nghệ nhân làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn.
Và có lẽ bởi quá ấn tượng với những pho tượng này, nhà thơ Huy Cận (1919-2005) sẵn có niềm hứng khởi khi đến thăm chùa từ thời là sinh viên trường Cao đẳng Canh Nông và rồi khi trở lại thăm chùa vào những năm 1960 ông đã viết bài thơ “Những vị La Hán chùa Tây Phương”. Đoạn đầu bài thơ là những mô tả những dáng hình khắc khổ kỳ lạ của các vị La Hán.
“Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe từa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn...”.
Rồi sau đó là những suy tư về thời cuộc. Tượng gỗ nhưng cũng là những con người, có những nỗi đau day dứt về kiếp người, thời thế:
“Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.
Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
…
Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu”.

Đến chùa Tây Phương lại nhớ thơ Huy Cận
Mọi sự so sánh có thể đều khập khiễng nhưng tôi biết rằng Victor Hugo khi viết “Nhà thờ Đức Bà Paris” đã khiến cho danh thắng này được biết đến trên toàn thế giới. Ngoài một nhà thờ của Thiên chúa giáo còn có một nhà thờ của văn học, của Victor Hugo. Bài thơ nổi tiếng của Huy Cận cũng làm cho chùa Tây Phương được nhiều người biết đến hơn. Huy Cận là một nhà thơ lớn của phong trào thơ mới với nhiều tác phẩm xuất sắc và đặc biệt hơn nhà thơ đã từng tham dự vào những sự kiện lớn của lịch sử. Đó là tháng 8-1945, Huy Cận đã cùng với Trần Huy Liệu và Nguyễn Lương Bằng vào Huế để tiếp nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến Việt Nam kéo dài hàng nghìn năm.
Ngoài vai trò là một nhà thơ, Huy Cận còn là một chính trị gia, năm 26 tuổi, ông đã điều hành Bộ Canh Nông trong Chính phủ Liên hiệp Quốc dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh như với vai trò một Bộ trưởng và sau này ông còn đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng khác trong Chính phủ. Người bạn tâm giao và thân thiết nhất với ông là nhà thơ Xuân Diệu sống cùng ông cho đến tận cuối đời ở phố Điện Biên Phủ.
Đến thăm chùa Tây Phương một chiều khi thu đã vào sâu, tôi đi trên những bậc đá ong dẫn lên chùa mà lòng man mác. Và khi ngắm những pho tượng phật trong chùa, lòng lại rộn lên những câu thơ của nhà thơ Huy Cận về thời thế, sự đời. Có đúng là rất nhiều bậc trí giả xưa nay vẫn đau đáu dằn vặt vì: “Nung nấu tâm can, vò võ trán/ Đau đời nhưng có cứu được đời đâu…”.

Những đường cong hút hồn ở chùa Tây Phương, Hà Nội
Kinhtedothi - Nằm trên ngọn núi Tây Phương, thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội, chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) là ngôi chùa mang giá trị nghệ thuật điêu khắc độc đáo với nhiều pho tượng Phật có giá trị. Đặc biệt, mái chùa Tây Phương rất đặc biệt với những góc đao cong vút lên hút hồn du khách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét