Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011

Bí mật rừng chè cổ thụ ngàn năm chưa từng biết đến ở VN

(VTC News) - Rừng chè cổ thụ ngàn tuổi nằm tràn từ phía Đông sang phía Tây của ngọn núi Fansipan, trải rộng trên độ cao từ 1.800 đến 2.500m.
Ông Trần Ngọc Lâm bên một cây chè trong vườn chè cổ thụ chưa từng được biết đến trong rừng Hoàng Liên sơn. 

Những ngày lang thang trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn, cùng ông Trần Ngọc Lâm đi tìm bãi đá cổ có hình khắc, đêm nằm trên những tảng đá lạnh lẽo giữa đại ngàn, tôi được ông Lâm kể cho nghe rất nhiều câu chuyện kỳ bí và lãng mạn liên quan đến Hoàng Liên Sơn. 

Những loài sâm, đặc biệt là thiết trúc nhân sâm nhiều trăm năm tuổi vẫn ẩn chứa đâu đó trong kẽ đá giữa đại ngàn. Những cây thuốc quý chữa ung thư, mà giá trị của nó lên đến nhiều triệu đồng một kg lá tươi. Những cây nấm phục linh quý hơn vàng, có tuổi cả trăm năm, mọc ra từ vết thương rỉ nhựa của những loài cây thuộc họ thông ngàn tuổi. Cánh rừng vân sam, với những đại cổ thụ vân sam cao đến 80m, tán rộng như một quả núi, chưa được phát hiện đã có nguy cơ biến mất do đã quá già cỗi, mà không tái sinh được. 

Điều tôi chú ý nhất trong những câu chuyện miên man về đại ngàn Hoàng Liên Sơn là một khu rừng chè, mà theo ông Lâm, nó rộng đến mức, ông đã có cả chục năm đi xuyên ngang, cắt dọc mà vẫn chưa hết. 

Rừng chè này nằm tràn từ phía Đông sang phía Tây của ngọn núi Fansipan, trải rộng trên độ cao từ 1.800 đến 2.500m. 
Tác giả và ông Trần Ngọc Lâm trên đường đi tìm vườn chè khổng lồ. 

Là người từng đi nhiều nơi, từng nghe kể nhiều về các loại trà, nên ông Lâm cũng có chút vốn hiểu biết về trà. Theo ông Lâm, nhiều chuyên gia trà thế giới hay nhắc đến những cây chè ở Assam, thuộc Ấn Độ. Cả bang Assam là một vườn chè cổ thụ, khổng lồ, bát ngát. Những cây chè nằm trên độ cao từ 1.200m đến 1.600m so với mặt nước biển là loại chè đặc biệt nhất. 

Những ngày lái xe thuê xuyên Á, từ Trung Quốc qua Tây Tạng, Ấn Độ, Trung Đông, sang tận Châu Âu, ông Lâm đã từng nhiều lần đi qua vùng Assam. Nơi đó, có rất nhiều huyền thoại liên quan đến trà. Khách du lịch, các chuyên gia về trà khắp thế giới thường tìm đến đây quỳ lạy dưới những gốc chè để tỏ lòng ngưỡng mộ. Những cây chè ở xứ này đều to cả người ôm và có tuổi cả ngàn, được coi là chè tổ của các loài chè trên thế giới. 
Đường đi vô cùng gian nan, vất vả. Không có đường, nên phải vạch rừng để đi. 

Tuy nhiên, khi phát hiện rừng chè bạt ngàn, mọc tự nhiên trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn, thì ông Lâm khẳng định rằng, chè ở Hoàng Liên Sơn mới là cụ tổ của chè Assam, ở xứ sở Ấn Độ xa xôi. 

Nghe ông Lâm kể về vườn chè, tôi đã không kìm được cảm xúc. Thế là, chúng tôi quyết định khăn gói, túi ngủ, bạt che, cơm nắm, thịt hộp lên đường, sau khi đã chinh phục thành công bãi đá cổ có hình khắc giữa đại ngàn. 

Trong chuyến đi tìm rừng chè khổng lồ này, chúng tôi được anh Phạm Văn Đăng, Giám đốc Vườn Quốc gia Hoàng Liên ủng hộ nhiệt tình. Sau khi làm xong thủ tục vào rừng, anh Đăng đã giao nhiệm vụ cho các đồng chí ở Trạm kiểm lâm Trạm Tôn tạo mọi điều kiện nếu chúng tôi yêu cầu. 

Chúng tôi lên Trạm Tôn từ chiều hôm trước và ngủ thật sớm. Mới 3h sáng, ông Lâm đã đánh thức tôi dậy. Đồng chí kiểm lâm Nguyễn Viết Huấn cũng đã nai nịt gọn gàng, chỉ chờ chúng tôi xỏ giày xong là lên đường. 
Rừng chè cổ thụ lúc nào cũng chìm trong mây mù. 

Mọi thứ trước mắt vẫn là bóng đêm mù mịt. Đèn pin bật lên chỉ thấy mờ mờ, bởi ánh sáng không xuyên qua nổi lớp mây mù dày đặc, nhưng chúng tôi vẫn vạch rừng mà đi. 

Chúng tôi cứ cuốc bộ như vậy từ sáng sớm đến gần trưa thì đến lán một, trên độ cao 2.200m, nằm trên đường đi Fansipan. Tại lán này, có một số người đang ngồi bóp chân, bóp tay, hoặc lang thang ngắm cảnh. Họ là những khách du lịch leo Fan, nhưng đi cả ngày chỉ lên được đến lán một, nên đành dừng lại, lỗi hẹn với Fan, đợi những người leo khỏe trở về thì cùng xuống núi. 

Sau khi ăn vội bữa trưa, chúng tôi tiếp tục lên đường. Trèo đến độ cao 2.500m, ông Trần Ngọc Lâm bảo dừng lại nghỉ ngơi. Đứng trên mỏm núi, nhìn ra tứ phía, chỉ thấy mây mù bao phủ, trùm kín thung lũng. Đột ngột, những cơn gió lớn thổi đám mây vọt từ thung lũng qua dãy núi, để lại một khoảng không sáng rực. Ông Lâm chỉ tay qua khoảng không trong vắt ấy và bảo sẽ đi hướng đó. 

Nhìn xuyên qua khoảng không, thấy một thung lũng xám xịt, với những thân cây cháy đen tua tủa. Đứng từ xa nhìn lại, những thân cây khổng lồ cháy đen nhỏ như những cọng tăm cắm vào núi. Ông Trần Ngọc Lâm gọi đó là “thung lũng chết”. Lát sau, những đám mây khác lại tràn đến, phủ kín “thung lũng chết”. 

Từ độ cao này, chúng tôi vạch rừng rẽ trái để đi. Từ đây, không có đường mòn, mà phải bám vào vách đá, dây leo để tụt xuống, rồi lại bám vào thân trúc mà bò lên. Thú thực, trong mỗi chuyến đi rừng, thứ tôi hãi nhất là vắt và rắn độc. Những con vắt chui vào chân, bò vào người, hút máu ễnh bụng mới chịu nhả ra ám ảnh cả trong giấc mơ trong những đêm ngủ giữa đại ngàn. Rất may, trên độ cao này, trong cái lạnh đến mức đóng băng, vắt không sống được, mà rắn thì vào hang ngủ đông cả, nên dù có gặp chúng, trông chúng cũng chẳng khác gì khúc củi, cứng queo như bị đông lạnh. 

Cứ hết lên dốc lại thả dốc, đến nhập nhoạng tối thì chúng tôi đặt chân đến “thung lũng chết”, cái tên đầy sự đau đớn, u tối mà ông Lâm tự đặt ra. Tôi lang thang khắp thung lũng, chụp ảnh những thân cây cháy đen vẫn đứng sừng sững giữa trời. Ông Trần Ngọc Lâm và đồng chí kiểm lâm dựng lều, đốt lửa sưởi ấm, xua thú dữ. 

Khách VIP Nhật tìm "kho báu" giữa rừng Hoàng Liên Sơn

(VTC News) - Dùng móng tay cạy một mẩu vỏ, ngắm nghía, ngửi một lúc, rồi cho vào miệng nhai, Muteki bảo: “Đúng là chè cổ thụ, chè xịn rồi”.

Dựng lều ngủ qua đêm trên hành trình đi tìm vườn chè trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn. 

Sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường, đi xuyên qua khu rừng trúc kỳ lạ. Con đường chúng tôi đi cứ như đi vào hang rồng. Cảm giác có một con rồng, với cái bụng có đường kính tới 2m, thường xuyên bò qua khu rừng trúc này. 

Đang định thắc mắc với ông Lâm thì nghe tiếng ào ào như có bão. Ông Lâm hét lên: “Nhảy vào rừng trúc”. Tức thì, chúng tôi ai nấy vạch bừa trúc ra để thoát khỏi con “hang rồng”. Đúng lúc đó, một đàn “trâu rừng” hùng hổ chạy qua. Lúc này, tôi mới hiểu, con đường như hang rồng này là do đàn trâu thả rông trong rừng của đồng bào đi nhiều mà thành. 

Con đường xuyên qua rừng trúc có đoạn như đường của rồng đi. 

Từ “thung lũng chết”, cuốc bộ đến gần trưa, xuyên qua những cánh rừng trúc, thì một khu rừng âm u, ẩm ướt hiện ra trước mắt. Ông Lâm thở phào thông báo: “Vườn chè cổ thụ đây rồi!”. Tôi nhìn mãi mà không thấy cây chè nào cả. Ông Lâm đập tay vào thân một cây cổ thụ bảo: “Cứ gốc cây nào có rêu xanh, lộ ra vỏ trắng, thì đó là chè”. 

Tôi ngước nhìn lên một thân cây cổ thụ mà ông Lâm chỉ, nhưng phần ngọn của nó chìm nghỉm trong mây mù, không nhìn rõ lá. 

Đồng chí kiểm lâm Nguyễn Viết Huấn cứ há hốc miệng ngạc nhiên. Huấn bảo: “Em làm kiểm lâm mấy năm nay, quanh năm cuốc bộ trong rừng, cứ tưởng mình đã đi hết, không ngờ lại có một khu rừng chè cổ thụ khổng lồ ở nơi hoang vu như thế này. Nếu bác Lâm không chỉ, có đi qua khu rừng này cũng không biết là rừng chè”. 
Dù đã đi khắp Vườn Quốc gia Hoàng Liên, song kiểm lâm Nguyễn Viết Huấn vẫn chưa từng biết đến rừng chè. 

Ông Lâm dẫn tôi đến gốc một cây chè cổ thụ, chỉ những khúc gỗ, thanh tre mục nát và bảo rằng, đây là nơi ông từng dựng lán cho một chuyên gia người Nhật ở suốt một tuần trong rừng để… thưởng trà. Như vậy, trước chúng tôi, ngoài ông Lâm, thì người thứ hai đã đặt chân đến rừng chè cổ thụ này là một kỹ sư người Nhật, có tên Muteki. 

Đó là vào năm 2003, những ngày sống trên đỉnh Fasipan, muốn kiếm thêm chút tiền, ông Lâm đã tranh thủ làm công việc dẫn khách du lịch chinh phục đỉnh Fansipan. Người khách thuê ông ngày đó là anh chàng Muteki, 36 tuổi, kỹ sư người Nhật. 

Muteki khi đó là giám đốc phụ trách mảng marketing của hãng Sony khu vực châu Á. Vì yêu thích Việt Nam, nên anh ta thi vào trường Đại học Quốc gia Hà Nội, học khoa tiếng Việt. Chính vì thế, Muteki nói tiếng Việt rất sõi. 

Sau khi kết thúc khoa học, Muteki tự thưởng cho mình một chuyến leo Fansipan, sau đó sang Thái Lan, trước khi về nước tiếp tục công việc. 

Muteki bảo rằng, vì bố anh ta có cổ phần ở công ty Sony, nên buộc phải làm việc ở đó, chứ thực tế anh ta thích nghiên cứu về trà hơn, vì anh ta rất mê trà. Trên suốt hành trình leo Fan, Muteki cứ nói chuyện không ngớt về thú thưởng trà, đặc biệt là nghệ thuật uống trà đạo ở Nhật Bản. 

Bỗng nhiên, ông Lâm nhớ đến rừng chè mà ông đã đi qua ở phía Tây dãy núi Hoàng Liên Sơn, ông liền bảo với anh chàng kỹ sư người Nhật: “Tôi đã đi qua vùng Tây Tạng, qua cả bang Assam của Ấn Độ và thấy chè ở đó phải gọi chè mọc hoang trong rừng Hoàng Liên Sơn bằng cụ tổ”. 

Anh chàng người Nhật lôi chiếc máy đo độ cao ra, tỏ vẻ ngạc nhiên và hỏi: “Ý ông nói là trên độ cao hơn 2.200m này có chè?”. Ông Lâm bảo: “Đúng vậy. Chè bát ngát, đi cả tháng không hết rừng chè”. 

Anh chàng người Nhật chỉ vào thân cây to bằng bắp chân bảo: “Nó to bằng cây này không?”. Ông Lâm bảo to hơn. Anh chàng người Nhật lại chỉ vào thân cây to bằng bắp đùi, rồi thân cây một người ôm, ông Lâm vẫn lắc đầu bảo to hơn. Ông Lâm bảo: “Nhiều cây to 2-3 người ôm”. 

Nơi kỹ sư người Nhật Bản Muteki dựng lều uống trà. 

Nghe ông Lâm kể về những cây chè to 2-3 người ôm, anh chàng kỹ sư người Nhật cứ trố mắt ngạc nhiên. Ông Lâm đọc thấy trong ánh mắt của anh ta lộ vẻ nghi ngờ. Sau phút trầm ngâm, anh chàng người Nhật kia bảo: “Thôi, không leo Fan nữa, đi tìm vườn chè thôi”. Thấy ông Lâm tần ngần, anh ta bảo: “Ông sợ tôi không có tiền hả, ông muốn lấy bao nhiêu tiền tôi trả bấy nhiêu”. Thế là, ông Lâm và anh chàng kỹ sư người Nhật vạch rừng đi tìm vườn chè cổ thụ. 

Bắt đầu rẽ từ độ cao 2.500m, vừa đi vừa phát đường suốt 2 ngày thì đến vườn chè. Muteki đứng hồi lâu dưới gốc một cây chè có thân chừng một người ôm. Sau đó, anh ta đi chậm rãi mấy chục vòng quanh gốc cây, nhìn gốc chè với dáng vẻ rất trầm ngâm, mà ông Lâm không hiểu nổi anh ta đang nghĩ gì. 

Tưởng anh ta đang nghi ngờ không biết có phải đây là cây chè không, ông Lâm liền vung dao toan chém vào thân cây. Không ngờ anh chàng ngăn lại, bảo: “Đừng làm chè đau. Người Nhật quý cây chè như quý tính mạng người ấy”. Nói rồi, anh ta dùng móng tay cạy một mẩu vỏ, ngắm nghía, ngửi một lúc, rồi cho vào miệng nhai. Muteki bảo: “Đúng là chè cổ thụ, chè xịn rồi”. Với người sùng trà đạo như Muteki, chắc chắn, khu rừng chè cổ thụ này là một kho báu vô giá.

Hát quốc ca, múa kiếm và thưởng trà trong rừng
(VTC News) - Hàng ngày, Muteki đeo kiếm, quỳ ngối, nâng niu bát chè xanh, hít hà một lúc rồi thưởng thức. Thưởng thức xong một bát, anh ta lại tuốt kiếm ra múa. Múa kiếm chán lại thưởng trà. Thưởng trà xong, lại hát vang cả rừng núi.

Phải khó khăn lắm mới trèo lên được một cây chè cổ thụ để hái lá, bởi các cây chè đều rất cao. 

Muteki đề nghị ông Lâm dựng lều. Là người sống lâu năm trong rừng, nên công việc này với ông Lâm không có gì khó khăn. Lao động một buổi, ông Lâm đã dựng xong một chiếc lán cao 1m, rộng 2m2, dùng chiếc bạt làm mái che mưa gió.

Ông trèo lên một cây chè cao chót vót, vung dao định chém một cành to tướng để anh chàng kỹ sư Nhật tha hồ thưởng thức, thì bị anh chàng người Nhật ngăn lại. Anh ta bảo ông Lâm chỉ cần bẻ những cành bằng cái đũa, không nên chặt cành to như kiểu phá rừng.

Dựng xong lều, ông Lâm để anh chàng người Nhật lại khu rừng chè mênh mông này, cuốc bộ trở ra để lấy lương thực, phục vụ cho một tuần sống trong rừng chè.

Hàng ngày, cứ đều đặn, từ sáng sớm tinh mơ, khi sương còn đọng đầy trên lá, ông Lâm lại trèo lên một cây chè, bẻ vài cành bằng ngón tay, có những lá già nhất. Muteki treo ngược những cành chè lên trước lều ngắm nghía.
 
Thân chè cổ thụ đều bị rêu bám xanh rì, thi thoảng mới lộ ra lớp vỏ trắng đặc trưng của họ nhà chè. 

Khi gió mạnh, thổi dạt mây đi, mới nhìn rõ tán lá chè. 

Ông Lâm đun nước sôi, đổ đầy vào chiếc bình ủ trà cho Muteki. Anh chàng người Nhật thưởng thức trà thay cho việc ăn sáng. Muteki vặt từng chiếc lá già, ngó nghiêng xem có hạt bụi nào không, rồi vuốt nhẹ cho sạch. Tiếp đó, anh ta dùng tay vò nát từng lá, rồi thả vào bình nước nóng.

Theo Muteki, người Nhật chỉ thích dùng lá chè già, vì theo họ, lá già hội tụ đầy đủ nhất tinh chất của đất trời. Sau lá già, mới dùng đến lá bánh tẻ và thứ kém chất lượng nhất với họ là búp. Thú ẩm thực trà của người Việt thì hoàn toàn ngược lại, quý nhất là búp, sau đó là lá bánh tẻ, còn lá già thì ít dùng.

Người Nhật có rất nhiều cách dùng trà, nhưng họ thích nhất là chè tươi. Họ thường xay lá chè thành bột, pha với nước nóng, uống cả nước lẫn bã. Cách phổ biến là bảo quản chè lá bằng túi nilon, rút hết không khí. Thậm chí, chè tươi còn được nghiền thành bột và chế biến thành nhiều loại bánh khác nhau.

Muteki cứ ngồi khoanh tròn trong lán thưởng thức từng bát trà sóng sánh bốc khói. Đến trưa, ăn qua loa chiếc bánh mì với thịt hộp, lại bắt đầu thưởng trà. Ăn tối xong, lại thưởng trà cho đến lúc đi ngủ. 
Ông Trần Ngọc Lâm, kiểm lâm viên Nguyễn Viết Hiếu bên một gốc chè. 

Một hôm, Muteki nói với ông Lâm: “Thú thưởng trà ở Nhật đã nâng tầm thành đạo. Trà ngon là một chuyện, nhưng phải uống trà đúng cách mới có ý nghĩa. Giá có thanh kiếm và bộ ki-mô-nô thì tuyệt quá!”.

Thấy anh chàng kỹ sư người Nhật ao ước vậy, ông Lâm liền nảy ra sáng kiến làm một thanh kiếm. Ông chặt một đoạn cành của một cây pơ-mu đã đổ, chặt chém, đẽo gọt suốt một buổi sáng thì ra hình dáng một thanh kiếm cong cong, đúng như kiếm Nhật mà giới võ sĩ đạo dùng. Ông Lâm lấy than củi đánh một lúc thì thanh kiếm gỗ trở nên đen bóng, trông chả khác gì kiếm thật.

Nhìn thấy thanh kiếm, anh chàng người Nhật hét lên sung sướng. Anh ta quỳ xuống, giơ hai tay lên đầu, nhận kiếm rất… phong cách. Anh chàng xé một chiếc áo, làm dây, đeo kiếm ngang lưng, phần chiếc áo bị xé còn lại buộc chéo từ vai xuống eo, trông y như võ sĩ Nhật Bản. 
Những gốc chè cổ thụ như thế này đều đã vài trăm năm tuổi. 

Hàng ngày, anh ta đeo kiếm, quỳ ngối, nâng niu bát chè xanh, hít hà một lúc rồi thưởng thức. Thưởng thức xong một bát, anh ta lại tuốt kiếm ra múa. Múa kiếm chán lại thưởng trà. Thưởng trà xong, lại hát ông ổng, vang cả rừng núi. Riêng buổi sáng, trước khi thưởng trà, anh ta đứng nghiêm trang, hát dõng dạc. Hỏi ra mới biết anh chàng hát Quốc ca của Nhật trước khi thưởng trà.

Sau đúng một tuần, Muteki giở hộ chiếu ra xem thì bảo đã sắp hết hạn, không thể ở Việt Nam lâu hơn được nữa. Thế là hai người xuống núi. Móc túi, được mấy triệu, anh ta đưa hết cho ông Lâm. Ông Lâm kêu nhiều quá, nhưng Muketi bảo rằng, số tiền đó tính ra bằng một bữa thưởng trà bên Nhật.

Trước khi rời Hoàng Liên Sơn, anh chàng kỹ sư người Nhật Muteki cứ nắm tay ông Lâm bảo: “Đây là rừng chè cổ nhất thế giới, và loại chè này cũng ngon nhất thế giới. Nếu rừng chè này ở bên Nhật, thì nó đã đem lại cho nước Nhật vinh quang lớn rồi. Vườn chè này sẽ mang lại nhiều tỷ đô-la mỗi năm nếu đưa vào khai thác”.

Chia tay ông Lâm, anh chàng kỹ sư người Nhật hứa rằng, sau khi ổn định công việc, anh ta sẽ tìm sang Việt Nam và sẽ dành thật nhiều thời gian để thưởng thức thứ chè mà anh ta cho là ngon nhất thế giới trên “nóc nhà Đông Dương”.
 
Tôi đã hái đầy một ba-lô chè cổ thụ trong rừng Hoàng Liên Sơn, trên độ cao 2.400, mang về Hà Nội để nhờ ông Hoàng Anh Sướng, chủ hiên trà Trường Xuân nổi tiếng ở Hà Nội thẩm định. Sau khi thưởng thức, ông Sướng khẳng định: Đây là loại trà cực kỳ ngon, và có lẽ, không trà ở đâu sánh bằng. Với độ cao 1.600m, những cây chè vài chục năm tuổi ở Tà Xùa (Bắc Yên, Sơn La) đã cho ra đời một loại trà đặc biệt. Nhưng mỗi năm, vùng đất Tà Xùa chỉ cung ứng được độ 100kg trà đặc sản, không bõ bèn gì. Tuy nhiên, điều đáng tiếc, nguồn chè này lại mọc hoang dã trong Vườn Quốc gia Hoàng Liên, nên việc khai thác để chế biến là điều không dễ dàng.
Chè hoang trong rừng Hoàng Liên ngon nhất thế giới? 17/02/2010 07:36
(VTC News) - Nhấp ngụm chè tươi bốc khói, giữa rừng hoang mây mù lạnh giá, thấy thật tuyệt vời. Tôi có cảm giác, dường như, bao nhiêu tinh hoa của trời đất đều tụ lại trong những tấm lá chè kia, giờ nó tan ra nước để những kẻ lạc lối giữa rừng hoang như tôi thưởng thức. 

Cây chè khổng lồ 3 người ôm không xuể mà tôi gặp ở rừng chè trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn. Theo cách tính của các chuyên gia Nhật Bản, thì cây chè này có độ tuổi lên đến hàng ngàn năm. 

Tôi cùng ông Trần Ngọc Lâm, đồng chí kiểm lâm viên Nguyễn Viết Huấn cuốc bộ xuống thung lũng, rồi bám vào vách núi trèo lên tận đỉnh một ngọn núi. Chúng tôi đi miết, đi miết, chỉ thấy duy nhất trong cánh rừng này là những thân chè to sù sụ, rêu mốc, cành lá cao vòi vọi như một khu rừng nguyên sinh già nua ngàn tuổi. 

Những hạt chè rơi vào kẽ đá, rễ bám trùm lên tảng đá, len vào vết nứt của đá núi nảy lên thân thân chè. Sức sống của chè cũng như những giống loài khác trên ngọn núi đá này thật kỳ lạ. 

Điều đặc biệt nữa, loại chè này chỉ mọc ở độ cao từ 1.800m đến 2.500m mà thôi. Dưới hoặc trên độ cao này, không thấy xuất hiện cây chè nào cả. Đứng trên đỉnh một ngọn núi, ông Lâm chỉ tay về phía Tây và bảo rằng, để đi cắt ngang được vườn chè này, thì phải mất 4-5 ngày cuốc bộ thật lực. Còn để đi hết vườn chè, đếm từng cây, có lẽ là mất cả đời người cũng không làm xong được việc đó. 
Những thân chè cổ thụ bám rễ vào đá để sống, nên chúng lớn rất chậm. 

Ông Lâm kể rằng, theo lời của anh chàng người Nhật mê trà tên Muteki, những cây chè mọc trên núi cao hơn ngàn mét, to một người ôm ở bên Nhật Bản được các nhà khoa học xác định tuổi đời lên đến vài trăm năm. Do vậy, những cây chè mọc trên núi đá, ở độ cao trên 2.000m trên núi Fansipan này, độ tuổi của chúng phải tính bằng hàng trăm đến cả ngàn năm. 

Ở độ cao này, môi trường khắc nghiệt, giá lạnh thấu xương, mùa đông tuyết phủ, nước trong đất cũng đóng băng, cây chè phải nhọc nhằn hút dinh dưỡng từ đá, do đó, lớn rất chậm. Theo tính toán của các nhà khoa học người Nhật, ở môi trường khắc nghiệt, trên độ cao này, mỗi năm đường kính thân cây chè chỉ lớn thêm được 1mm. Những cây chè cổ thụ, tốc độ lớn còn chậm hơn rất nhiều. Chính vì thế, với những cây chè có vòng thân 2-3 người ôm trong đại ngàn Hoàng Liên Sơn, đều có tuổi cả ngàn năm. 
Chúng tôi đi mãi trong rừng mà không tìm được lá chè nào rụng. Thời gian dường như ngừng trôi với loài chè cổ thụ trên núi Fansipan. 

Rừng chè nguyên sơ, cây chè như những cây rừng, chưa bao giờ có người thu hái, chăm sóc, nên chúng cao chót vót, gốc bám trên đá, ngọn chìm trong mây. Phải khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được những cây chè có chạc ở thấp để trèo lên hái lá. 

Theo ông Lâm, ông đã để ý quan sát trong nhiều ngày đi rừng, và thật khó khăn khi phát hiện được một lá chè rụng xuống đất ở giữa rừng chè cổ thụ này. Điều đó có nghĩa, vòng đời của lá chè rất lớn. Tôi có cảm giác rằng, sự sống của những cây chè như ngừng lại, và thời gian đối với loại cây này dường như là vô nghĩa. 

Không cầu kỳ như anh chàng người Nhật mê trà kỳ lạ kia, phải dựng lều, đẽo kiếm, chúng tôi chọn một tảng đá bằng phẳng, lập bếp nấu nước pha trà. 
 

Tôi trèo tót lên một cây chè người ôm không xuể, bẻ những cành chè nhỏ có đủ cả lá già, lá bánh tẻ, lá non và búp. Ông Trần Ngọc Lâm cắt ngang rừng chè xuống thung lũng đi kiếm đoạn thân trúc khổng lồ. Ở Hoàng Liên Sơn, trên mỗi độ cao lại có một loại trúc khác biệt. Loại trúc lớn nhất, thân to bằng bắp chân, thậm chí bằng cả ống luồng, nhưng loại trúc nhỏ nhất, gọi là trúc lùn, thân chỉ bằng cọng tăm, cao đến đầu gối. 

Ông Lâm đi đến chiều thì trở về với những đoạn ống trúc chứa đầy nước suối. Đồng chí kiểm lâm Nguyễn Viết Hiếu tìm củi khô nhóm lửa. Ông Lâm đổ đầy nước vào các ống trúc, treo trên ngọn lửa. Nước sôi, chúng tôi thả những lá chè tươi vào ống nứa và đun tiếp. Loài chè trên núi Fansipan này lá rất dày, nên phải đun sôi rất lâu mới chín. 
Kiểm lâm viên Nguyễn Viết Hiếu nổi lửa nấu chè bằng ống trúc. 

Trong lúc chờ chè chín, ông Lâm lôi chiếc sáo trúc mà ông mang theo ra thổi. Tiếng sáo véo von vang vọng khắp núi rừng. Những ngày sống trong rừng già, buồn quá, ông thường lôi sáo ra thổi. Mỗi khi tiếng sáo vang lên, đàn vượn lại ríu rít tìm đến. Ông Lâm kể rằng, mới tháng trước, ông ngồi vắt vẻo trên ngọn cây vân sam thổi sáo, đàn gấu 4 con nghe thấy tiếng sáo của ông liền tìm đến. Tuy nhiên, khi gặp lại, sau mấy năm xa cách, hai chú gấu con đã to lừng lững như bố mẹ. 

Hồi sống trong hang đá trên độ cao 2.900m, ông Lâm thường thổi sáo cho vợ chồng nhà gấu ở hang đối diện và đàn vượn ở hang cạnh nghe. Khi con đường du lịch leo Fan mới được mở ra, khách du lịch đi cắt qua những cái hang ở độ cao này, đàn vượn và vợ chồng nhà gấu đã bỏ đi. Ông Lâm cũng bỏ đi nốt. 

Ông Lâm thổi sáo một lúc, thì nghe văng vẳng từ xa vọng lại tiếng vượn hót ríu rít. Ông Lâm bảo, đàn vượn đã nghe thấy tiếng sáo của ông nên hót đáp lại. Tuy nhiên, để chúng đến được chỗ ông, phải mất cả ngày. Nhìn cảnh ông Lâm ngồi thổi sáo gọi vượn và gấu trong mây mù và khói lửa lảng bảng giữa rừng hoang, chợt thấy thiên nhiên và con người thật bí ẩn và kỳ thú. 
"Người rừng" Trần Ngọc Lâm thổi sáo gọi gấu và vượn. 

“Ấm” chè nóng hôi hổi được rót ra những chiếc cốc đẽo bằng ống trúc. Nhấp ngụm chè tươi bốc khói, giữa rừng hoang mây mù lạnh giá, thấy thật tuyệt vời. Tôi có cảm giác, dường như, bao nhiêu tinh hoa của trời đất đều tụ lại trong những tấm lá chè kia, giờ nó tan ra nước để những kẻ lạc lối giữa rừng hoang như tôi thưởng thức. 

Tôi từng nghe một câu phát biểu của một chuyên gia trà người Nhật, khi ông uống bát chè tươi Suối Giàng: “Trong bát nước chè xanh, có đủ 18 vị đầu đẳng của chè ngon trên thế giới”. Tôi cũng đã lên tận Suối Giàng (Yên Bái), ôm những gốc chè cổ thụ vài trăm năm tuổi, uống những bát chè xanh do người Mông nấu bằng nước con suối của Trời. Tôi cũng đã từng uống những ấm trà búp thương hiệu Suối Giàng, giá bạc triệu một kg trong phòng lạnh giữa thành phố. 
Thưởng trà giữa đại ngàn Hoàng Liên Sơn. 

Thế nhưng, những gì là đặc biệt nhất của chè Suối Giàng hình như chưa thể sánh được với những lá chè của đại ngàn Hoàng Liên Sơn. Nhìn chén nước chỉ có màu xanh rất nhạt, nhưng khi uống, lại thấy hương vị rất đậm đà, ngọt mãi ở cuống họng. Điều này cũng dễ lý giải, bởi vì, dù những gốc chè Suối Giàng mọc trên một ngọn núi rất cao, song cũng chỉ từ 1.000 đến 1.400m, trong khi đó, những gốc chè cổ thụ nơi đây mọc ở độ cao tới 2.500m so với mặt nước biển. 

Rời đại ngàn Hoàng Liên Sơn với rừng chè hoang vĩ đại cả triệu cây, tôi cứ thầm ước, một ngày nào đó, rừng chè này sẽ được “khai mở” một cách khoa học. Như vậy, đồng bào ở Sapa sẽ có cách kiếm sống, không phải săn thú, không phải đốn rừng trồng thảo quả, không phải làm lâm tặc xẻ gỗ nữa. Và hy vọng, trong tương lai không xa, trà Fansipan sẽ là một thương hiệu mới của đất nước. 

Phạm Ngọc Dương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét