SGTT.VN - Núi rừng ban cho con người không chỉ sản vật
mà còn cả những gia vị trong cuộc sống thường ngày. Những món ăn trở nên
ngon, lạ và hấp dẫn bởi núi rừng đã cung cấp những gia vị cay nồng,
thơm nức tận nơi đầu nguồn.
Các loại gia vị tự nhiên từ núi rừng của người vùng cao.
|
Riềng rừng và hạt dổi
Vào khoảng tháng 7, tháng 8 âm lịch, đoán biết được lúc
ấy, những bụi riềng trên rừng đã già, đã cay, người Tày vác cuốc lên
rừng tìm những bụi nào riềng đã trổ hoa, ra quả, xung quanh cỏ cây rậm
rạp, đào lên lấy củ. Những củ riềng già cứng đơ, vỏ bọc đen lại và cay
xè. Đó là lúc vị cay của rừng đã đến độ chín. Người vùng cao lấy riềng
về cạo sạch vỏ, giã ra phơi khô đổ vào ống bầu làm gia vị dùng dần.
Riềng làm gia vị cho nhiều món ở vùng cao. Nào cá nướng ướp riềng, thịt
heo cắp nách bóp riềng mẻ, món măng đắng luộc chấm muối riềng… món nào
cũng vậy, riềng đều cho vị cay cay, thơm thơm, ăn vào thấy ấm lòng.
Trên rừng già có những cây dổi to vừa mấy người ôm. Vào
những ngày đầu tháng 10, những cây dổi cổ thụ rụng hạt. Nếu không để ý
có lẽ không biết đây là thứ gia vị độc đáo mà núi rừng mời gọi con
người. Chiều về, mấy cô sơn nữ hái củi, bẻ măng không quên dừng lại gốc
dổi già, lúi húi nhặt những hạt dổi đen bóng, nhỏ bằng cái cúc áo cho
vào túi mang về làm gia vị. Người vùng cao quá quen với hạt dổi, với mùi
thơm thơm, cay cay của nó. Nên mỗi khi chế biến món ăn, có hạt dổi thấy
đậm đà hơn. Hạt dổi phải nướng trên bếp than hồng mới dậy mùi. Cho vào
cối giã mịn thành hạt nhỏ rồi rắc vào thức ăn. Món tiết canh vịt cỏ nếu
thiếu hạt dổi sẽ mất đi một nửa vị ngon, món thịt heo nướng mà không lắc
rắc mấy hạt dổi thì không dậy mùi.
Hạt xẻng và lá nhội
Gia vị của núi rừng đã làm nên những món ăn dân dã nhưng giàu hương vị.
|
Ít ai biết đến nếu không một lần thưởng thức, mà đã ăn
dù chỉ một lần thôi sẽ khó quên. Lên rừng già, tìm trong lau lách và bụi
rậm, người ta sẽ thấy một loại cây thân thẳng đứng lá mọc trên ngọn tựa
như lá đu đủ, thân từ gốc lên ngọn tua tủa gai, lá; thân cây có màu đỏ
tía. Vào cuối năm, từng chùm quả của cây đen lại và bắt đầu toả hương.
Lên rừng mùa này, người ta đã cảm nhận được mùi vị cay nồng của nó. Đấy
là cây mắc kén theo cách phát âm của người bản địa, còn người Kinh gọi
là cây xẻng. Hạt xẻng nhỏ như hạt tiêu, đen và sần sùi, khi ăn phải rang
lên và giã nhỏ. Vị của hạt xẻng cay và “sốc” hơn hạt tiêu, hạt dổi. Nếu
ăn không quen, người ta thấy hăng hắc khó chịu nhưng quen rồi lại thấy
thơm và nồng ấm. Người vùng cao thường dùng hạt xẻng để quay vịt, ướp
thịt heo để nướng và xào với thịt trâu hay giã nhỏ, trộn với muối dùng
làm đồ chấm cho nhiều món. Bọn trẻ chăn trâu mỗi buổi chiều thường hay
quanh quẩn bên những xẻng tua tủa gai để nhặt hạt về. Trâu xuống núi,
bọn trẻ túi căng đầy hạt xẻng.
Ven suối dưới chân rừng già, từ lâu, người Tày hay hái
lá một loại cây về làm gia vị. Loại cây này quanh năm xanh tốt, ưa nước
nên thường mọc quanh bờ suối, thân to xù xì, tựa như lá vông nem. Người
Tày vẫn thường hay gọi nó là cây lá nhội. Nhội có vị thơm đặc biệt từ
lá. Khi hái về, người ta dùng lá nhội xanh ngắt để cuốn với thịt heo
chua trong ống nứa, người ta giã nát nó ra, trộn đều với muối hạt để
chấm thịt heo cắp nách hay chấm thịt vịt. Nhội không cay nồng như hạt
dổi, hạt xẻng mà nó có vị chua chua, ngọt ngọt nơi đầu lưỡi, rất hợp ăn
với các món thịt luộc nơi vùng cao.
Ẩm thực nơi bản Mông, bản Dao, bản Tày có nồng đượm và
độc đáo hay không, có lẽ nhờ vào những gia vị của núi rừng này mà có
được. Trong những căn nhà sàn nơi bản xa, bên bếp lửa, du khách như nghe
thấy hương vị núi rừng Tây Bắc thoảng lên.
bài và ảnh: Nguyễn Thế Lượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét